Cuối tuần qua, hàng trăm khinh khí cầu đủ màu sắc và hình dáng ngộ nghĩnh đã được thả lên bầu trời ở thành phố Albuquerque, bang New Mexico, Mỹ trong ngày khai mạc Lễ hội Khinh khí cầu Quốc tế Albuquerque lần thứ 40.
Lễ hội được tổ chức hàng năm và là một trong những sự kiện nổi tiếng thu hút khách du lịch đến với thành phố. Lễ hội năm nay có sự tham dự của hàng trăm người đam mê khinh khí cầu đến từ khắp nơi trên thế giới. Những chiếc khinh khí cầu màu sắc sặc sỡ mang theo chủ nhân của chúng bay lơ lửng trên bầu trời của Công viên Lễ hội Khinh khí cầu rộng 147 ha ở thành phố Albuquerque đã tạo nên cảnh sắc hết sức sống động.
Ban tổ chức cho biết lễ hội khinh khí cầu Albuquerque năm nay có quy mô lớn nhất từ trước đến giờ. Lễ hội kéo dài trong 9 ngày, dự kiến có khoảng một triệu lượt du khách đến với sự kiện văn hóa nổi tiếng này.
10/10/2011
Steve Jobs và những bài học ở đời
Chiều nay nhận một tin buồn. Ông Steve Jobs, người sáng lập công ty MacIntosh và tác giả của iPhone, iMac, iPad, iPod mới qua đời. Ông thọ 56 tuổi. Sự ra đi của ông đã được đoán trước. Tôi là một trong hàng triệu người vô danh trên thế giới này ngưỡng mộ ông. Nên cũng có đôi dòng gọi là nhật ký của một ngày buồn.
Tôi bị thu hút bởi những ý nghĩ của Steve Jobs. Những ý nghĩ về sự sống, triết lý ở đời, và nhất là về cái chết. Nói về triết lý sống, ông khuyên “Đùng phung phí thì giờ để sống cuộc sống của người khác. Đừng trói buộc mình bằng những giáo điều. Đừng để tiếng động của ý kiến người khác làm chìm tiếng động của trái tim mình. Và quan trọng hơn hết, nên dũng cảm để theo đuổi những ý tưởng của con tim và trực giác.” Quan điểm của ông về cái chết rất … khác thường nhưng không phải là phi lý. Ông quan niệm rằng cái chết có lẽ là một phát minh độc nhất và hay nhất của Sinh Mệnh. Cái chết là một tác nhân của Sinh Mệnh. Quan niệm đó cũng không khác với triết lý Đông phương. Theo triết lý Đông phương, cái chết cũng tự nhiên như sự sống, cũng kỳ diệu và tốt đẹp như nhau. Chết có lẽ chỉ là một sự chuyển nghiệp.
Ông có lẽ là một bệnh nhân tuyệt vời. Một bệnh nhân biết chọn cho mình một cách ra đi thanh thản. Quả đúng như vậy, ông là người biết trước mình sẽ ra đi về cõi vĩnh hằng. Giữa tháng 5 năm nay, sau khi được bác sĩ báo cho biết bệnh ung thư tuyến tụy của ông ở vào giai đoạn cuối, ông tự nguyện từ chức CEO của công ty ông sáng lập. Ông muốn dành thời gian cho gia đình và sắp xếp những công chuyện còn dang dở. Thế là chỉ vài tháng sau, đến ngày hôm nay thì ông vĩnh viễn ra đi.
Steve Jobs ra đi, nhưng di sản của ông thì còn mãi mãi. Nếu có một người có thể làm thay đổi thế giới và làm cho thế giới hạnh phúc hơn, người đó phải là Steve Jobs. Những sản phẩm bắt đầu bằng Mac và i do ông thiết kế đã làm thay đổi cách chúng ta sử dụng máy tính. Apple và ông làm cho máy tính đơn giản hơn, đẹp hơn và thân thiện hơn với con người. Apple và ông lúc nào cũng là người dẫn đường. Microsoft cũng bắt chước cách thiết kế của ông. Ông sẽ được lịch sử ghi nhận như là một trong những kiến trúc sư của Thời Đại Mới. Cuộc đời thăng trầm của ông là cả một bài học cho nhiều người, trong đó có tôi. Những bài học mà tôi và nhiều người trong chúng ta có thể học từ Steve Jobs là:
Một cá nhân có ý tưởng và ý chí có thể làm thay đổi thế giới.
Chúng ta không nhất thiết phải làm theo quy luật của người khác đặt ra. Chúng ta có thể bất tuân!
Chúng ta không nhất thiết phải lắng nghe tất cả các ý kiến và lời khuyên. Chúng ta nên làm theo những gì chúng ta nghĩ là có ích cho xã hội.
Chúng ta đáp ứng những gì xã hội cần, chứ không phải những gì xã hội muốn.
Lúc nào chúng ta cũng có cơ hội thứ hai.
Cái đẹp và tính đơn giản đóng vai trò quan trọng trong tất cả việc chúng ta làm.
Khoảng 7 tháng trước, tôi có tóm lược và lược dịch một bài nói chuyện của ông ở Viện đại học Stanford. Trong bài nói chuyện, ông kể lại sự cận kề cái chết và định nghĩa về cái chết như một lời tiên tri:
“Khoảng một năm trước, tôi biết mình mắc bệnh ung thư. Tôi đi làm scan lúc 7:30 sáng, và kết quả cho thấy một khôi u rõ ràng trong tuyến tụy. Lúc đó, tôi thậm chí không biết tuyến tụy là cái gì. Các bác sĩ cho tôi biết rằng đó là một loại ung thư không thể chữa trị, và tôi chỉ có thể sống trong vòng 3 đến 6 tháng. Bác sĩ khuyên tôi nên về nhà và sắp xếp công việc đâu ra đó. Đó cũng chính là mật mã của giới bác sĩ: chuẩn bị chết. Điều đó có nghĩa là tôi phải nói cho con cái biết tất cả những gì tôi nghĩ tôi đã làm trong 10 năm qua. Điều đó cũng có nghĩa là nói lời chia tay.
Tôi sống với chẩn đoán đó suốt cả ngày. Buổi chiều hôm đó, tôi đi làm sinh thiết. Bác sĩ đặt cái ống soi trong cổ họng tôi, xuyên qua bao tử và đến ruột, rồi đặt một cây kim để lấy một mô tụy để làm xét nghiệm. Tôi được gây mê, nhưng vợ tôi có mặt bên cạnh nói cho tôi hay rằng khi bác sĩ xem các tế bào dưới kính hiển vi, họ bắt đầu khóc vì đây là một loại ung thư tụy rất hiếm và chỉ có thể cố gắng điều trị bằng phẫu thuật. Tôi đồng ý làm phẫu thuật. Và nay thì tôi khỏe.
Đó là thời điểm tôi cận kề cái chết. Đã cận kề cái chết, tôi có thể nói cho các bạn một các xác quyết hơn khi cái chết chỉ đơn thuần là một khái niệm tri thức:
Không ai muốn chết. Ngay cả người muốn lên thiên đàng cũng không muốn chết để đến đó. Vậy mà tất cả chúng ta đều phải chết. Không ai có thể tránh khỏi cái chết. Cái chết là một sáng tạo duy nhất và hay nhất của cuộc đời. Cái chết là một tác nhân của sự thay đổi. Nó dọn cái cũ qua một bên để nhường đường cho cái mới. Ngay lúc này, cái mới là các bạn, nhưng một ngày nào đó không xa lắm đâu, các bạn sẽ trở thành cái cũ và bị cái chết dọn đường.
Nên nhớ rằng tôi sẽ chết nay mai và đó chính là công cụ quan trọng nhất mà tôi chạm trán để giúp tôi có những lựa chọn lớn trong cuộc sống. Bởi vì tất cả — những kỳ vọng, niềm tự hào, những nỗi lo âu về xấu hổ và thất bại – tất cả những kỳ vọng ngoại tại đó sẽ bị sụp đổ trước cái chết.
Mỗi sáng tôi nhìn vào kính, và tự hỏi mình, “Nếu hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc đời, những gì tôi sắp làm hôm nay có phải là những gì tôi muốn làm?” Và nếu câu trả lời là “Không” trong vài ngày liền thì tôi biết rằng mình nên thay đổi định hướng.”
Vĩnh biệt Steve Jobs, người tôi chưa bao giờ quen biết. Từ nay, mỗi lần sử dụng cái iPhone 3 tôi nhớ đến người sáng chế ra nó. Như thế thì Steve Jobs vẫn còn bên chúng ta trên khắp hành tinh.
BSN
TB: Sau đây là vài câu nói bất hủ của Steve Jobs. Tôi chỉ trích dịch vài câu tâm đắc nhất:
Là người giàu nhất trong nghĩa địa chẳng có ý nghĩa gì với tôi … Với tôi, điều quan trọng là mỗi đêm lên nằm giường và nói chúng ta đã làm một điều gì đó kỳ diệu trong ngày. (Being the richest man in the cemetery doesn’t matter to me … Going to bed at night saying we’ve done something wonderful… that’s what matters to me.)
Công việc của tôi không phải là dễ dãi với người khác, mà là làm cho họ tốt hơn (My job is to not be easy on people. My job is to make them better).
Bạn không thể hỏi khách hàng họ muốn gì rồi cố gắng đáp ứng nhu cầu của họ. Đến khi bạn làm xong thì họ đòi hỏi cái mới khác (You can’t just ask customers what they want and then try to give that to them. By the time you get it built, they’ll want something new).
Thiết kế không có nghĩa là thẩm mỹ và cảm nhận như thế nào, mà là nó vận hành như thế nào (Design is not just what it looks like and feels like. Design is how it works).
Sáng kiến phân biệt giữa người lãnh đạo và kẻ theo theo gót chân người khác (Innovation distinguishes between a leader and a follower).
Chất lượng quan trọng hơn số lượng (Quality is more important than quantity).
Nguồn: www.macstories.net/roundups/inspirational-steve-jobs-quotes/
Đăng lại từ blog của bsngoc: www.bsngoc.wordpress.com
Tôi bị thu hút bởi những ý nghĩ của Steve Jobs. Những ý nghĩ về sự sống, triết lý ở đời, và nhất là về cái chết. Nói về triết lý sống, ông khuyên “Đùng phung phí thì giờ để sống cuộc sống của người khác. Đừng trói buộc mình bằng những giáo điều. Đừng để tiếng động của ý kiến người khác làm chìm tiếng động của trái tim mình. Và quan trọng hơn hết, nên dũng cảm để theo đuổi những ý tưởng của con tim và trực giác.” Quan điểm của ông về cái chết rất … khác thường nhưng không phải là phi lý. Ông quan niệm rằng cái chết có lẽ là một phát minh độc nhất và hay nhất của Sinh Mệnh. Cái chết là một tác nhân của Sinh Mệnh. Quan niệm đó cũng không khác với triết lý Đông phương. Theo triết lý Đông phương, cái chết cũng tự nhiên như sự sống, cũng kỳ diệu và tốt đẹp như nhau. Chết có lẽ chỉ là một sự chuyển nghiệp.
Ông có lẽ là một bệnh nhân tuyệt vời. Một bệnh nhân biết chọn cho mình một cách ra đi thanh thản. Quả đúng như vậy, ông là người biết trước mình sẽ ra đi về cõi vĩnh hằng. Giữa tháng 5 năm nay, sau khi được bác sĩ báo cho biết bệnh ung thư tuyến tụy của ông ở vào giai đoạn cuối, ông tự nguyện từ chức CEO của công ty ông sáng lập. Ông muốn dành thời gian cho gia đình và sắp xếp những công chuyện còn dang dở. Thế là chỉ vài tháng sau, đến ngày hôm nay thì ông vĩnh viễn ra đi.
Steve Jobs ra đi, nhưng di sản của ông thì còn mãi mãi. Nếu có một người có thể làm thay đổi thế giới và làm cho thế giới hạnh phúc hơn, người đó phải là Steve Jobs. Những sản phẩm bắt đầu bằng Mac và i do ông thiết kế đã làm thay đổi cách chúng ta sử dụng máy tính. Apple và ông làm cho máy tính đơn giản hơn, đẹp hơn và thân thiện hơn với con người. Apple và ông lúc nào cũng là người dẫn đường. Microsoft cũng bắt chước cách thiết kế của ông. Ông sẽ được lịch sử ghi nhận như là một trong những kiến trúc sư của Thời Đại Mới. Cuộc đời thăng trầm của ông là cả một bài học cho nhiều người, trong đó có tôi. Những bài học mà tôi và nhiều người trong chúng ta có thể học từ Steve Jobs là:
Một cá nhân có ý tưởng và ý chí có thể làm thay đổi thế giới.
Chúng ta không nhất thiết phải làm theo quy luật của người khác đặt ra. Chúng ta có thể bất tuân!
Chúng ta không nhất thiết phải lắng nghe tất cả các ý kiến và lời khuyên. Chúng ta nên làm theo những gì chúng ta nghĩ là có ích cho xã hội.
Chúng ta đáp ứng những gì xã hội cần, chứ không phải những gì xã hội muốn.
Lúc nào chúng ta cũng có cơ hội thứ hai.
Cái đẹp và tính đơn giản đóng vai trò quan trọng trong tất cả việc chúng ta làm.
Khoảng 7 tháng trước, tôi có tóm lược và lược dịch một bài nói chuyện của ông ở Viện đại học Stanford. Trong bài nói chuyện, ông kể lại sự cận kề cái chết và định nghĩa về cái chết như một lời tiên tri:
“Khoảng một năm trước, tôi biết mình mắc bệnh ung thư. Tôi đi làm scan lúc 7:30 sáng, và kết quả cho thấy một khôi u rõ ràng trong tuyến tụy. Lúc đó, tôi thậm chí không biết tuyến tụy là cái gì. Các bác sĩ cho tôi biết rằng đó là một loại ung thư không thể chữa trị, và tôi chỉ có thể sống trong vòng 3 đến 6 tháng. Bác sĩ khuyên tôi nên về nhà và sắp xếp công việc đâu ra đó. Đó cũng chính là mật mã của giới bác sĩ: chuẩn bị chết. Điều đó có nghĩa là tôi phải nói cho con cái biết tất cả những gì tôi nghĩ tôi đã làm trong 10 năm qua. Điều đó cũng có nghĩa là nói lời chia tay.
Tôi sống với chẩn đoán đó suốt cả ngày. Buổi chiều hôm đó, tôi đi làm sinh thiết. Bác sĩ đặt cái ống soi trong cổ họng tôi, xuyên qua bao tử và đến ruột, rồi đặt một cây kim để lấy một mô tụy để làm xét nghiệm. Tôi được gây mê, nhưng vợ tôi có mặt bên cạnh nói cho tôi hay rằng khi bác sĩ xem các tế bào dưới kính hiển vi, họ bắt đầu khóc vì đây là một loại ung thư tụy rất hiếm và chỉ có thể cố gắng điều trị bằng phẫu thuật. Tôi đồng ý làm phẫu thuật. Và nay thì tôi khỏe.
Đó là thời điểm tôi cận kề cái chết. Đã cận kề cái chết, tôi có thể nói cho các bạn một các xác quyết hơn khi cái chết chỉ đơn thuần là một khái niệm tri thức:
Không ai muốn chết. Ngay cả người muốn lên thiên đàng cũng không muốn chết để đến đó. Vậy mà tất cả chúng ta đều phải chết. Không ai có thể tránh khỏi cái chết. Cái chết là một sáng tạo duy nhất và hay nhất của cuộc đời. Cái chết là một tác nhân của sự thay đổi. Nó dọn cái cũ qua một bên để nhường đường cho cái mới. Ngay lúc này, cái mới là các bạn, nhưng một ngày nào đó không xa lắm đâu, các bạn sẽ trở thành cái cũ và bị cái chết dọn đường.
Nên nhớ rằng tôi sẽ chết nay mai và đó chính là công cụ quan trọng nhất mà tôi chạm trán để giúp tôi có những lựa chọn lớn trong cuộc sống. Bởi vì tất cả — những kỳ vọng, niềm tự hào, những nỗi lo âu về xấu hổ và thất bại – tất cả những kỳ vọng ngoại tại đó sẽ bị sụp đổ trước cái chết.
Mỗi sáng tôi nhìn vào kính, và tự hỏi mình, “Nếu hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc đời, những gì tôi sắp làm hôm nay có phải là những gì tôi muốn làm?” Và nếu câu trả lời là “Không” trong vài ngày liền thì tôi biết rằng mình nên thay đổi định hướng.”
Vĩnh biệt Steve Jobs, người tôi chưa bao giờ quen biết. Từ nay, mỗi lần sử dụng cái iPhone 3 tôi nhớ đến người sáng chế ra nó. Như thế thì Steve Jobs vẫn còn bên chúng ta trên khắp hành tinh.
BSN
TB: Sau đây là vài câu nói bất hủ của Steve Jobs. Tôi chỉ trích dịch vài câu tâm đắc nhất:
Là người giàu nhất trong nghĩa địa chẳng có ý nghĩa gì với tôi … Với tôi, điều quan trọng là mỗi đêm lên nằm giường và nói chúng ta đã làm một điều gì đó kỳ diệu trong ngày. (Being the richest man in the cemetery doesn’t matter to me … Going to bed at night saying we’ve done something wonderful… that’s what matters to me.)
Công việc của tôi không phải là dễ dãi với người khác, mà là làm cho họ tốt hơn (My job is to not be easy on people. My job is to make them better).
Bạn không thể hỏi khách hàng họ muốn gì rồi cố gắng đáp ứng nhu cầu của họ. Đến khi bạn làm xong thì họ đòi hỏi cái mới khác (You can’t just ask customers what they want and then try to give that to them. By the time you get it built, they’ll want something new).
Thiết kế không có nghĩa là thẩm mỹ và cảm nhận như thế nào, mà là nó vận hành như thế nào (Design is not just what it looks like and feels like. Design is how it works).
Sáng kiến phân biệt giữa người lãnh đạo và kẻ theo theo gót chân người khác (Innovation distinguishes between a leader and a follower).
Chất lượng quan trọng hơn số lượng (Quality is more important than quantity).
Nguồn: www.macstories.net/roundups/inspirational-steve-jobs-quotes/
Đăng lại từ blog của bsngoc: www.bsngoc.wordpress.com
Thư gửi con
Mấy ngày nay, trên các trang mạng xã hội, các diễn đàn xôn xao bàn tán về một bức thư của cha mẹ gửi đến những đứa con thân yêu của mình.
Mời đọc bài viết dưới đây:
“Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vung vãi... Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc... Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày, giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ... mà hãy lắng nghe!
Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ... và bố mẹ đã làm vì con.
Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ... lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi con thấy sự ít hiểu biết của bố mẹ trong đời sống văn minh hiện đại ngày hôm nay, đừng thất vọng mà hãy để bố mẹ thời gian để tìm hiểu.
Bố mẹ đã dạy dỗ con bao điều... từ cái ăn, cái mặc cho đến bản thân và phải biết đương đầu với bao thử thách trong cuộc sống.
Nếu như bố mẹ có đãng trí hay không nhớ hết những gì con nói... hãy để bố mẹ đôi chút thời gian để suy ngẫm lại và nhỡ như bố mẹ không tài nào nhớ nổi, đừng vì thế mà con bực mình mà tức giận... vì điều quan trọng nhất đối với bố mẹ là được nhìn con, đưọc gần bên con và được nghe con nói, thế thôi!
Nếu như bố mẹ không muốn ăn, đừng ép bố mẹ!... vì bố mẹ biết khi nào bố mẹ đói hay không.
Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa... hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.
Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng... bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ... vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
Hãy cố hiểu và chấp nhận, đến khi về già, sống mà không còn hữu ích cho xã hội mà chỉ là gánh nặng cho gia đình!... và sống chỉ là vỏn vẹn hai chữ "sinh tồn".
Một ngày con lớn khôn, con sẽ hiểu rằng, với bao sai lầm ai chẳng vướng phải, bố mẹ vẫn bỏ công xây dựng cho con một con đường đi đầy an lành.
Con đừng nên cảm thấy xót xa buồn đau, đừng cho rằng con bất lực trước sự già nua của bố mẹ.
Con chỉ cần hiện diện bên bố mẹ để chia sẻ những gì bố mẹ đang sống và cảm thông cho bố mẹ, như bố mẹ đã làm cho con tự khi lúc con chào đời.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều...
Hãy giúp bố mẹ trong phút sống còn lại trong yêu thương và nhẫn nại...
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều...
Bố mẹ..."
Tác giả: PIERRE ANTOINE (Việt kiều Pháp)
giaoducvietnam: Ừ nhỉ, các trường đại học VN công bố “chuẩn đầu ra...
giaoducvietnam: Ừ nhỉ, các trường đại học VN công bố “chuẩn đầu ra...: Tôi đã viết trên blog này vài entry về Learning Outcomes rồi, nhưng hôm nay lại phải viết thêm sau một cuộc trao đổi với một người bạn nhỏ c...
9/28/2011
Nhận giải thưởng danh giá, GS Hoàng Tụy buồn nhiều hơn!
Ngày 22/9, một số mạng thông tin của giới khoa học chia sẻ tin vui, GS Hoàng Tụy được nhận giải thưởng đầu tiên của Đại hội Toán học quốc tế về tối ưu toàn cục. Gặp ông vào chiều ngày sau đó, vị giáo sư nổi tiếng với công trình kinh điển "lát cắt Tụy" bộc bạch, ông thấy mình buồn nhiều hơn.
Nỗi buồn của người từng tạo ra "kinh thánh"
Vừa trở về nhà lúc 5h chiều, sau 2 buổi dự hội thảo về giáo dục, GS Hoàng Tụy nói: "Hôm qua, có một số báo gọi đến hỏi, nhưng tôi bảo không có gì cả, rất bình thường, bình thường lắm, làm ầm ĩ lên thì không đáng”.
‘Nhận giải thưởng, tôi vui ở chỗ, đây là một xác nhận chính thức về cống hiến của mình, mà thực ra, lâu nay phần lớn mọi người đều thừa nhận cả rồi. Nhưng tôi không vui hoàn toàn là bởi tương lai tối ưu toàn cục ở Việt Nam không sáng sủa, vai trò của Việt Nam trong ngành khoa học này trên thế giới không có tương lai”.
Giải thưởng Constantin Caratheodory, đã được đại hội thông báo với ông từ 2 tháng trước.
Đại hội tối ưu toàn cục năm nay tổ chức lần 2, ở Hy Lạp, đã chọn ông – người đầu tiên để tôn vinh. Lần thứ nhất, đại hội tổ chức ở Thượng Hải, Trung Quốc vào năm 2009.
Sau khi giải thích một chút với tôi về nguồn cơn ra đời của hiệp hội tối ưu toàn cục và những động thái mạnh mẽ mà Trung Quốc gầy dựng để vươn lên vai trò dẫn đầu ở lĩnh vực này, giọng ông chùng xuống, khác với vẻ say sưa, nhiệt huyết mỗi lần đến gặp ông để hỏi chuyện về những vấn đề dư luận quan tâm:
‘Ở Việt Nam, khó xây dựng tập thể khoa học mạnh. Lẽ ra, tối ưu toàn cục có thể trở thành một trường phái ở Việt Nam. Tôi đã cố gắng xây dựng, nhưng thất bại”.
Trong cuộc đời làm khoa học và giáo dục của mình, ông đã hoàn thành nhiều việc lớn. 26 tuổi, chủ trì biên soạn sách giáo khoa phổ thông. 37 tuổi, khai sơn phá thạch lĩnh vực mới của toán học; đóng vai trò không nhỏ cho việc ra đời các chương trình, chính sách phát triển đội ngũ làm khoa học về toán của Việt Nam. Nhưng cũng có việc bất thành, mà ông không muốn nhắc lại.
"Gần đây, tình hình có khá hơn, sau chuyện anh Ngô Bảo Châu có giải thưởng Fields. Nhưng chưa giải quyết được vấn đề cơ bản đâu. Những người giỏi đi ra nước ngoài hết cả” – giọng ông buồn buồn.
Hướng về giáo dục
2011 cũng là năm GS Hoàng Tụy đón nhận những niềm vui nho nhỏ. Đó là giải thưởng của những tổ chức uy tín trong và cả ngoài nước dành cho sự nghiệp khoa học, giáo dục của ông - nhà toán học nay đã ở tuổi 84.
Và cũng như ở địa hạt khoa học, ở giáo dục, ông có niềm vui khi nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng tiến bộ; nhưng không khỏi nỗi buồn bởi những nguyện ý còn dở dang...
Tháng 3 vừa qua, ông vừa được tôn vinh với giải thưởng Phan Châu Trinh. Không phải giải thưởng hay huân chương trong hệ thống hành chính Nhà nước, giải thưởng này được khởi xướng từ một tổ chức xã hội dân sự, với ý nghĩa cao quý thúc đẩy sự nghiệp văn hoá giáo dục của nước nhà theo tinh thần khai sáng của nhà ái quốc vĩ đại. Ở lĩnh vực giáo dục, sau GS Hồ Ngọc Đại, GS Hoàng Tụy là người thứ 2 nhận giải.
Trong diễn từ đọc ở lễ trao giải, ông giải thích “duyên nợ với giáo dục” của một người làm khoa học ở một đất nước nghèo khó:
“Bắt đầu dạy học ở tuổi 20, đến nay đã ngoài 80, suốt hơn 60 năm đó, tôi chưa lúc nào xa rời nghề dạy học, tuy học trò của tôi thì tuổi tác, tính chất, trình độ và cả quốc tich cũng ngày càng đa dạng. Được may mắn học phổ thông ở nhà trường thời thực dân, ra đời cũng được đi đây đi đó học, dạy, làm việc trong những môi trường đại học khoáng đạt hiện đại từ Tây sang Đông trên thế giới nên tôi thường có dịp suy ngẫm về nghề nghiệp của mình.
Suy ngẫm từ vị trí công dân một nước nghèo, lạc hậu, khát khao mau chóng đuổi kịp một nhân loại đang rộn rịp chuyển lên nền văn minh trí tuệ đầy thách thức. Điều đó tự nhiên dẫn đến mối quan tâm trăn trở gần như thường trực đối với nền giáo dục của nước nhà...."
Nhận thức từ rất sớm một hiện thực hiển nhiên “chỗ nghẽn lớn nhất của xã hội là giáo dục”, trong khoảng hơn chục năm gần đây, ông đã khởi xướng và dẫn đầu nhiều seminar để kiên trì cất một tiếng nói: Chấn hưng giáo dục: Mệnh lệnh của cuộc sống!
Seminar “hướng về giáo dục” khởi xướng năm 2004, tập hợp 23 nhà khoa học, giáo dục và văn hóa, hầu hết là Việt kiều ở Mỹ, Pháp, Nhật, Bỉ, Úc… nhằm đề xuất một cải cách giáo dục mạnh mẽ.
Song song với seminar "hướng về giáo dục" là bản kiến nghị "chấn hưng giáo dục" gây xôn xao xã hội lúc bấy giờ. Đồng cảm với khát vọng có được một nền giáo dục hiện đại, tôn trọng các nguyên tắc "trung thực, tự do và sáng tạo", nhiều tiếng nói đã cất lên đồng hành cùng nhóm trí thức ấy. Nhiều tờ báo lớn mở diễn đàn và chạy bài ngót cả năm.
5 năm sau, một bản kiến nghị tương tự với tinh thần canh tân tiếp tục được gửi tới Quốc hội, Chính phủ.
"Giáo dục và giáo dục, không có gì quan trọng hơn. Vì vậy, cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện và triệt để là mệnh lệnh cuộc sống. Càng chần chừ, càng trì hoãn càng trả giá đắt, và không loại trừ đến một lúc nào đó sẽ là quá trễ như đã từng xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới" - ông nhắc lại.
Nhưng lúc này, sự phổ biến của bản kiến nghị đã bớt rộng rãi hơn.
‘Lát cắt Tụy’
"Lát cắt Tụy" là tên gọi từ công trình mang lại giá trị khoa học cho ông, người đã tìm ra cách giải một trong những bài toán cơ bản nhất của tối ưu toàn cục: Bài toán tìm cực tiểu một hàm lõm trên một tập đa diện lồi giới nội. Công trình đưa ra lát cắt độc đáo có khả năng ứng dụng rộng, không chỉ đối với nhiều bài toán tối ưu toàn cục mà còn đối với những bài toán quy hoạch tổ hợp.
Cuộc sống của ông từng trải qua những "lát cắt đặc biệt". Chẳng hạn, lần bị liệt hẳn một chân và một tay khi đang học đệ nhị cao đẳng tiểu học (tương đương cấp 2) may mắn nhờ châm cứu mà khỏi. Nhìn lại cuộc đời, ông thấy đây là năm có ý nghĩa nhất. Cậu bé Tụy thoải mái đọc sách của các anh chị, từ đó rèn được khả năng tự học.
Còn "cái và cách" (chữ dùng của Hồ Ngọc Đại) mà GS Tụy "cắt" giáo dục không phải lúc nào cũng dễ nghe.
Năm 2003, sau đợt xét công nhận GS với một bước tiến lớn (chuyển từ học hàm sang chức danh và đưa hoạt động này vào nề nếp hàng năm, sau gần 20 năm bỏ ngỏ), nhận định "1/3" GS xứng đáng bị miễn nhiệm chức danh" của ông gây xôn xao giáo giới đại học. Còn các công trình nghiên cứu khoa học rởm để tính thành tích cộng vào cho cái danh GS hão được ông gọi tên là "mớ giấy lộn".
Năm 2004, tại một hội thảo, ông đã gọi những vấn nạn ảnh hưởng tới cơ thể khỏe mạnh của nền giáo dục là "ba khối u dị dạng" và chẳng ngại ngần gọi đó là "giáo dục bệnh hoạn".
Ông cũng tỏ bày sự thất vọng mau chóng khi giáo dục "chạy theo thành tích dễ dãi được quảng cáo ầm ĩ thiếu trung thực lại ngốn nhiều công sức, tiền của mà hiệu quả thấp".
Mặc cho những nhìn nhận "tại sao lại chỉ trích mà không đưa giải pháp", hay "có phần thiếu thực tế", ông vẫn kiên trì với "mệnh lệnh cuộc sống". Giáo dục phải đổi mới thi cử, xây dựng đại học theo tinh thần khai sáng, đào tạo theo nhu cầu xã hội và then chốt nhất là cải tổ chính sách với giáo chức.
Bởi "hơn ba mươi năm qua đã cho thấy, hầu hết mọi căn bệnh tàn phá giáo dục đều có nguồn gốc ít nhiều ở cái chính sách bỏ mặc rồi khuyến khich thầy giáo tự bươn chải để kiếm sống mà làm nghề, trong một môi trường đòi hỏi họ phải toàn tâm toàn ý mới làm tốt được nhiệm vụ".
Trong một buổi làm việc hơn hai giờ vào khoảng giữa tháng 11/2010, ông đã cố gắng thuyết phục Bộ trưởng GD-ĐT đương nhiệm "hãy nhân cơ hội này nhận nhiệm vụ lịch sử khởi động công cuộc cải cách giáo dục đã được đề ra trong các nghị quyết lớn của trung ương". Trước hết, là có một cách tiếp cận mới đối với một số vấn đề nhức nhối nhất hiện nay như thi cử, tổ chức trung học phổ thông và dạy nghề, tuyển chọn GS, PGS, xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế, v.v.
"Tuy nhiên, gần nửa năm trời sau tuyên bố mạnh mẽ của Thủ tướng, tình hình vẫn im ắng. Cỗ máy giáo dục già nua cổ lỗ vẫn tiếp tục vận hành ì ạch mà chưa thấy tín hiệu gì sẽ có thay đổi" - ông ưu tư.
|
GS Hoàng Tụy. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Vừa trở về nhà lúc 5h chiều, sau 2 buổi dự hội thảo về giáo dục, GS Hoàng Tụy nói: "Hôm qua, có một số báo gọi đến hỏi, nhưng tôi bảo không có gì cả, rất bình thường, bình thường lắm, làm ầm ĩ lên thì không đáng”.
‘Nhận giải thưởng, tôi vui ở chỗ, đây là một xác nhận chính thức về cống hiến của mình, mà thực ra, lâu nay phần lớn mọi người đều thừa nhận cả rồi. Nhưng tôi không vui hoàn toàn là bởi tương lai tối ưu toàn cục ở Việt Nam không sáng sủa, vai trò của Việt Nam trong ngành khoa học này trên thế giới không có tương lai”.
GS Hoàng Tụy có viết chung cuốn sách toán tiếng Anh với một người Đức "Global Optimization-Deterministic Approches (Tối ưu toàn cục - tiếp cận tất định) và được một GS người Nhật Bản, nhận xét: Cuốn sách ấy được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là cuốn Kinh Thánh của chuyên ngành tối ưu toàn cục và trên thực tế, nhiều người bắt đầu các công trình nghiên cứu nghiêm túc của mình về tối ưu toàn cục là nhờ “được cuốn sách mở đường ấy cổ vũ”. (Nhà báo Hàm Châu) |
Đại hội tối ưu toàn cục năm nay tổ chức lần 2, ở Hy Lạp, đã chọn ông – người đầu tiên để tôn vinh. Lần thứ nhất, đại hội tổ chức ở Thượng Hải, Trung Quốc vào năm 2009.
Sau khi giải thích một chút với tôi về nguồn cơn ra đời của hiệp hội tối ưu toàn cục và những động thái mạnh mẽ mà Trung Quốc gầy dựng để vươn lên vai trò dẫn đầu ở lĩnh vực này, giọng ông chùng xuống, khác với vẻ say sưa, nhiệt huyết mỗi lần đến gặp ông để hỏi chuyện về những vấn đề dư luận quan tâm:
‘Ở Việt Nam, khó xây dựng tập thể khoa học mạnh. Lẽ ra, tối ưu toàn cục có thể trở thành một trường phái ở Việt Nam. Tôi đã cố gắng xây dựng, nhưng thất bại”.
Trong cuộc đời làm khoa học và giáo dục của mình, ông đã hoàn thành nhiều việc lớn. 26 tuổi, chủ trì biên soạn sách giáo khoa phổ thông. 37 tuổi, khai sơn phá thạch lĩnh vực mới của toán học; đóng vai trò không nhỏ cho việc ra đời các chương trình, chính sách phát triển đội ngũ làm khoa học về toán của Việt Nam. Nhưng cũng có việc bất thành, mà ông không muốn nhắc lại.
"Gần đây, tình hình có khá hơn, sau chuyện anh Ngô Bảo Châu có giải thưởng Fields. Nhưng chưa giải quyết được vấn đề cơ bản đâu. Những người giỏi đi ra nước ngoài hết cả” – giọng ông buồn buồn.
|
|
2011 cũng là năm GS Hoàng Tụy đón nhận những niềm vui nho nhỏ. Đó là giải thưởng của những tổ chức uy tín trong và cả ngoài nước dành cho sự nghiệp khoa học, giáo dục của ông - nhà toán học nay đã ở tuổi 84.
Và cũng như ở địa hạt khoa học, ở giáo dục, ông có niềm vui khi nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng tiến bộ; nhưng không khỏi nỗi buồn bởi những nguyện ý còn dở dang...
Tháng 3 vừa qua, ông vừa được tôn vinh với giải thưởng Phan Châu Trinh. Không phải giải thưởng hay huân chương trong hệ thống hành chính Nhà nước, giải thưởng này được khởi xướng từ một tổ chức xã hội dân sự, với ý nghĩa cao quý thúc đẩy sự nghiệp văn hoá giáo dục của nước nhà theo tinh thần khai sáng của nhà ái quốc vĩ đại. Ở lĩnh vực giáo dục, sau GS Hồ Ngọc Đại, GS Hoàng Tụy là người thứ 2 nhận giải.
Trong diễn từ đọc ở lễ trao giải, ông giải thích “duyên nợ với giáo dục” của một người làm khoa học ở một đất nước nghèo khó:
“Bắt đầu dạy học ở tuổi 20, đến nay đã ngoài 80, suốt hơn 60 năm đó, tôi chưa lúc nào xa rời nghề dạy học, tuy học trò của tôi thì tuổi tác, tính chất, trình độ và cả quốc tich cũng ngày càng đa dạng. Được may mắn học phổ thông ở nhà trường thời thực dân, ra đời cũng được đi đây đi đó học, dạy, làm việc trong những môi trường đại học khoáng đạt hiện đại từ Tây sang Đông trên thế giới nên tôi thường có dịp suy ngẫm về nghề nghiệp của mình.
Suy ngẫm từ vị trí công dân một nước nghèo, lạc hậu, khát khao mau chóng đuổi kịp một nhân loại đang rộn rịp chuyển lên nền văn minh trí tuệ đầy thách thức. Điều đó tự nhiên dẫn đến mối quan tâm trăn trở gần như thường trực đối với nền giáo dục của nước nhà...."
Nhận thức từ rất sớm một hiện thực hiển nhiên “chỗ nghẽn lớn nhất của xã hội là giáo dục”, trong khoảng hơn chục năm gần đây, ông đã khởi xướng và dẫn đầu nhiều seminar để kiên trì cất một tiếng nói: Chấn hưng giáo dục: Mệnh lệnh của cuộc sống!
Seminar “hướng về giáo dục” khởi xướng năm 2004, tập hợp 23 nhà khoa học, giáo dục và văn hóa, hầu hết là Việt kiều ở Mỹ, Pháp, Nhật, Bỉ, Úc… nhằm đề xuất một cải cách giáo dục mạnh mẽ.
Song song với seminar "hướng về giáo dục" là bản kiến nghị "chấn hưng giáo dục" gây xôn xao xã hội lúc bấy giờ. Đồng cảm với khát vọng có được một nền giáo dục hiện đại, tôn trọng các nguyên tắc "trung thực, tự do và sáng tạo", nhiều tiếng nói đã cất lên đồng hành cùng nhóm trí thức ấy. Nhiều tờ báo lớn mở diễn đàn và chạy bài ngót cả năm.
5 năm sau, một bản kiến nghị tương tự với tinh thần canh tân tiếp tục được gửi tới Quốc hội, Chính phủ.
"Giáo dục và giáo dục, không có gì quan trọng hơn. Vì vậy, cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện và triệt để là mệnh lệnh cuộc sống. Càng chần chừ, càng trì hoãn càng trả giá đắt, và không loại trừ đến một lúc nào đó sẽ là quá trễ như đã từng xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới" - ông nhắc lại.
Nhưng lúc này, sự phổ biến của bản kiến nghị đã bớt rộng rãi hơn.
|
Làm sao để nhà giáo sống được bằng lương là điều hiển nhiên mà GS Hoàng Tụy kiên trì kiến nghị. |
"Lát cắt Tụy" là tên gọi từ công trình mang lại giá trị khoa học cho ông, người đã tìm ra cách giải một trong những bài toán cơ bản nhất của tối ưu toàn cục: Bài toán tìm cực tiểu một hàm lõm trên một tập đa diện lồi giới nội. Công trình đưa ra lát cắt độc đáo có khả năng ứng dụng rộng, không chỉ đối với nhiều bài toán tối ưu toàn cục mà còn đối với những bài toán quy hoạch tổ hợp.
Cuộc sống của ông từng trải qua những "lát cắt đặc biệt". Chẳng hạn, lần bị liệt hẳn một chân và một tay khi đang học đệ nhị cao đẳng tiểu học (tương đương cấp 2) may mắn nhờ châm cứu mà khỏi. Nhìn lại cuộc đời, ông thấy đây là năm có ý nghĩa nhất. Cậu bé Tụy thoải mái đọc sách của các anh chị, từ đó rèn được khả năng tự học.
Còn "cái và cách" (chữ dùng của Hồ Ngọc Đại) mà GS Tụy "cắt" giáo dục không phải lúc nào cũng dễ nghe.
Năm 2003, sau đợt xét công nhận GS với một bước tiến lớn (chuyển từ học hàm sang chức danh và đưa hoạt động này vào nề nếp hàng năm, sau gần 20 năm bỏ ngỏ), nhận định "1/3" GS xứng đáng bị miễn nhiệm chức danh" của ông gây xôn xao giáo giới đại học. Còn các công trình nghiên cứu khoa học rởm để tính thành tích cộng vào cho cái danh GS hão được ông gọi tên là "mớ giấy lộn".
Năm 2004, tại một hội thảo, ông đã gọi những vấn nạn ảnh hưởng tới cơ thể khỏe mạnh của nền giáo dục là "ba khối u dị dạng" và chẳng ngại ngần gọi đó là "giáo dục bệnh hoạn".
Ông cũng tỏ bày sự thất vọng mau chóng khi giáo dục "chạy theo thành tích dễ dãi được quảng cáo ầm ĩ thiếu trung thực lại ngốn nhiều công sức, tiền của mà hiệu quả thấp".
Mặc cho những nhìn nhận "tại sao lại chỉ trích mà không đưa giải pháp", hay "có phần thiếu thực tế", ông vẫn kiên trì với "mệnh lệnh cuộc sống". Giáo dục phải đổi mới thi cử, xây dựng đại học theo tinh thần khai sáng, đào tạo theo nhu cầu xã hội và then chốt nhất là cải tổ chính sách với giáo chức.
Bởi "hơn ba mươi năm qua đã cho thấy, hầu hết mọi căn bệnh tàn phá giáo dục đều có nguồn gốc ít nhiều ở cái chính sách bỏ mặc rồi khuyến khich thầy giáo tự bươn chải để kiếm sống mà làm nghề, trong một môi trường đòi hỏi họ phải toàn tâm toàn ý mới làm tốt được nhiệm vụ".
Trong một buổi làm việc hơn hai giờ vào khoảng giữa tháng 11/2010, ông đã cố gắng thuyết phục Bộ trưởng GD-ĐT đương nhiệm "hãy nhân cơ hội này nhận nhiệm vụ lịch sử khởi động công cuộc cải cách giáo dục đã được đề ra trong các nghị quyết lớn của trung ương". Trước hết, là có một cách tiếp cận mới đối với một số vấn đề nhức nhối nhất hiện nay như thi cử, tổ chức trung học phổ thông và dạy nghề, tuyển chọn GS, PGS, xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế, v.v.
"Tuy nhiên, gần nửa năm trời sau tuyên bố mạnh mẽ của Thủ tướng, tình hình vẫn im ắng. Cỗ máy giáo dục già nua cổ lỗ vẫn tiếp tục vận hành ì ạch mà chưa thấy tín hiệu gì sẽ có thay đổi" - ông ưu tư.
|
Hiện nay, GS Hoàng Tụy sống cùng vợ tại ngôi nhà ở phố Đội Cấn. Ông vẫn tham gia biên tập bài báo ở các tạp chí khoa học quốc tế; tham gia một số thảo luận về giáo dục trong nước. |
- Hạ Anh
- Ảnh: Lê Anh Dũng
Theo Vietnamnet
SV đòi lương nghìn đô và GV làm ngày không đủ tô phở
(GDVN) - Có một nghịch lý đang tồn tại: SV đòi lương nghìn đô, trong khi đó, lương của một bộ phận giáo viên làm cả ngày vẫn không đủ tiền mua một bát phở.
Với thu nhập 500 ngàn đồng (chưa đầy 25 USD) một tháng, sau khi trừ tất cả các loại tiền bảo hiểm y tế, xã hội, công đoàn là số tiền 35 GV mầm non Mậu Lâm. Thanh Hóa nhận được, tính ra mỗi ngày số tiền này không đủ để mua một tô phở.
Trong khi đó, cách đây ít lâu, một vài SV Ngoại thương tuyên bố: "Lương dưới 1000 USD, không làm." Điều này phản ánh khoảng cách giữa khao khát và thực tế tiền lương nhận được cũng như sự phân hóa lương tiền đang tồn tại trong xã hội.
Trong khi đó, cách đây ít lâu, một vài SV Ngoại thương tuyên bố: "Lương dưới 1000 USD, không làm." Điều này phản ánh khoảng cách giữa khao khát và thực tế tiền lương nhận được cũng như sự phân hóa lương tiền đang tồn tại trong xã hội.
Giọt nước mắt của cô giáo mầm non Mậu Lâm, Thanh Hoá. Ảnh: Lê Hoàng. VnExpress |
Mục đích đầu tiên của việc đi làm là để kiếm được nhiều tiền nhằm để phục vụ cho nhu cầu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng đúng như mong muốn của mỗi người. Trong khi có những người may mắn tìm được một công việc với mức lương lý tưởng thì cũng có không ít người làm chật vật cả ngày vẫn không đủ sống.
Dù thế nào thì không ai có thể phủ nhận có một sự thật: Lương chính là yếu tố đầu tiên khi tìm việc. Chính vì thế, khi SV ra trường khát khao kiếm được một mức lương ổn định và phù hợp với năng lực cũng là một điều hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng khát khao là một chuyện, thực tế khi trực tiếp đối diện lại là một chuyện khác.
Một điều khiến rất nhiều băn khoăn sau khi ra trường chính là nơi làm việc và mức lương mình sẽ nhận được nếu làm việc ở đó. Hầu hết đều mong sẽ tìm được một công việc đúng chuyên ngành và lương thật cao.
Lương luôn là ý nghĩ hiện ra đầu tiên khi bạn nói chuyện về công việc. Không chỉ những sinh viên ở tỉnh, xuất thân từ những vùng quê nghèo khó đi ra thì họ mới khát khao làm được thật nhiều tiền, mà ngay cả với những sinh viên sinh ra và lớn lên nơi đô thị phồn hoa, họ vẫn mường tượng về một mức lương cao ngất ngưởng khi chọn nơi làm việc.
Và lương đương nhiên trở thành yếu tố đầu tiên để sinh viên chọn công việc sau khi tốt nghiệp. Làm việc với mức lương mơ ước trở thành ước mơ của những sinh viên vừa tốt nghiệp. Chuyện có những SV nhận lương nghìn đô là có thật nhưng làm được điều này chỉ là một bộ phận nhỏ sinh viên và họ cũng chỉ có thể nhận mức lương này khi làm việc cho những công ty nước ngoài hay công ty liên doanh.
Tất nhiên, đó cũng là một mong muốn hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, thực tế khi ra trường, kiếm được công việc theo đúng nguyện vọng đó lại là một vấn đề khác.
Ảnh minh họa |
Trong khi một số SV không ngần ngại đòi lương nghìn đô thì trong xã hội vẫn tồn tại những câu chuyện giáo viên mầm non nhận lương ngày không đủ bát phở.
Công sức và thời gian làm việc phải bỏ ra nhiều nhưng ngược lại chế độ lương của giáo viên mầm non lại thuộc một trong những bậc thấp nhất của ngành giáo dục. Không có thời gian làm thêm, làm ngoài, tất cả trông hết vào lương và một số khoản trợ cấp theo lương chính là lý do mà các cô giáo bậc học khó có thể gắn bó lâu dài với nghề.
So với số tiền lương nghìn đô mà một số SV Ngoại thương tuyên bố thì đồng lương mà giáo viên nhận được quá ít ỏi. Sống dựa vào lương, đồng lương thì quá khiêm tốn trong mặt bằng giá cả tăng hàng ngày chắc chắn người thầy rất chật vật.
Dân tộc Việt Nam vốn coi trọng người thầy và luôn đặt họ ở vị trí trân trọng nhất, nhưng chỉ trân trọng thôi vẫn chưa đủ. Xã hội cần chung tay để người thầy không băn khoăn khi đứng trên bục giảng mà lòng còn nặng chuyện “cơm áo gạo tiền”.
Xã hội cần có cái nhìn công bằng và nhanh chóng kéo giảm khoảng cách nghịch lý này để người thầy toàn tâm toàn ý tập trung cho nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ.
Xem bài gốc tại đây
Tuyển sinh Cử nhân Kinh tế Tài chính 2+2 ĐH Massey tại ĐH Kinh tế - ĐHQGHN
Chương trình Cử nhân Kinh doanh 2+2 (Bachelor of Business Studies 2+2), chuyên ngành Kinh tế - Tài chính học 2 năm tại trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN và 2 năm tại ĐH Massey, New Zealand đang nhận hồ sơ tuyển sinh khóa 3.
Đại học Massey (http://www.massey.ac.nz/) thành lập năm 1927, được AACSB (Hiệp hội phát triển giảng dạy doanh thương bậc đại học) kiểm định và chứng nhận thuộc Top 5% các trường đại học Kinh doanh cao cấp và được trường Đại học Giao thông Thượng hải xếp hạng thuộc TOP 500 trường đại học lớn và uy tín trên thế giới.Chương trình đào tạo áp dụng khung chương trình Cử nhân Kinh doanh của Trường ĐH Massey (360 tín chỉ tương tương 24 môn học), vì thế bằng và bảng điểm do Trường ĐH Massey cấp và không có sự khác biệt so với sinh viên học tập hoàn toàn tại New Zealand.
Sinh viên sẽ có 2 năm học tại Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN để nâng cao tiếng Anh và học các môn cơ sở ngành. Việc học 2 năm tại VN sẽ chuẩn bị hành trang tốt nhất về ngoại ngữ, văn hóa để sinh viên du học thuận lợi hơn, không bỡ ngỡ khi sang nước ngoài. Hơn nữa, 2 năm tại Việt Nam sẽ tiết kiệm cho sinh viên tới 60% tổng chi phí so với việc đi du học 4 năm tại New Zealand. Đặc biệt, chương trình còn có nhiều học bổng cho các sinh viên xuất sắc từng môn học và xuất sắc nhất trong cả quả trình học 2 năm tại VN.
Ông Bruce Grahan, Giám đốc chương trình quốc tế ĐH Massey.
Trong thời gian 2 năm sau của chương trình, các em sẽ được chuyển tiếp sang New Zealand với một trong 3 lựa chọn về chuyên ngành: Kinh tế; Tài chính; hoặc cả Kinh tế và Tài chính (ngành kép). Đây cũng là cơ hội để các em khám phá và trưởng thành trong nền văn hóa New Zealand, là một trong những đất nước nước nổi tiếng yên bình và có nền giáo dục phát triển cao nhất thế giới. ĐH Massey có 3 khu học xá lớn tại thủ đô Wellington và 2 thành phố lớn Auckland và Palmerton.
Buổi sinh hoạt ngoại khóa của sinh viên BBS Massey tại ĐH Kinh tế, ĐHQGHN, có sự tham dự của Đại sứ New Zealand tại Việt Nam - bà Heather Riddell (áo xanh).
Với chương trình đào tạo được xây dựng hợp lý, có tính ứng dụng cao, được công nhận trên toàn thế giới, đồng thời có sự kết hợp của hai trường công lập uy tín của Việt Nam (ĐH Kinh tế, ĐHQGHN) và New Zealand (ĐH Massey), ra trường các em có cơ hội ở lại New Zealand làm việc hoặc tự tin phát triển trong các tập đoàn quốc tế, các ngân hàng, doanh nghiệp tại VN. Điều kiện tuyển sinh của chương trình như sau:
- Đạt điểm sàn kỳ thi Đại học của Bộ GD-ĐT (tất cả các khối)
- Có chứng chỉ tiếng Anh IELTS ≥ 4.5; hoặc TOEFL iBT≥ 51. Các thí sinh chưa có chứng chỉ sẽ tham gia kỳ thi tiếng Anh đầu vào ngày 03/10/2011. Vì chương trình học bao gồm 1 năm học tiếng Anh với các giảng viên Việt Nam và New Zealand, nên các thí sinh có trình độ tiếng Anh cơ bản cũng có thể yên tâm theo học.
Đặc biệt, trong kỳ tuyển sinh khóa 3, các em có cơ hội nhận được các học bổng khuyến khích sau: học bổng trị giá 6.000.000 VNĐ cho các ứng viên có chứng chỉ tiếng Anh IELTS ≥ 5.5 hoặc TOEFL iBT ≥ 61; học bổng khuyến khích trị giá 2.000.000 VNĐ cho các ứng viên trúng tuyển vào đại học công lập; học bổng khuyến khích trị giá 2.000.000 VNĐ cho các thí sinh đạt điểm cao nhất trong kỳ thi đầu vào.
Theo Dantri.com.vn
Cần một cuộc chấn hưng giáo dục
TT - Đó là đề nghị của nhiều đại biểu tham dự cuộc tọa đàm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo nước nhà do Ban Tuyên giáo trung ương tổ chức ngày 27-9 tại Hà Nội.
GS Hoàng Tụy phát biểu tại cuộc tọa đàm - Ảnh: Việt Dũng |
Rất nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm đã được tổ chức liên tục trong thời gian qua để mổ xẻ những bất cập của giáo dục và đề xuất những giải pháp nhằm thay đổi. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên bộ trưởng, các thứ trưởng và nhiều cán bộ quản lý của Bộ GD-ĐT cùng có mặt để lắng nghe những đề xuất, kiến nghị từ những nhà nghiên cứu giáo dục, nhà khoa học có uy tín...
Hàng loạt vấn đề cần giải quyết
"Chúng ta luôn nói “Tôn sư trọng đạo”, nhưng lương nhà giáo quá thấp, giáo viên không thể sống được bằng đồng lương của mình" GS HOÀNG TỤY |
Là người đầu tiên phát biểu tại cuộc tọa đàm, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên phó chủ tịch nước, cho rằng: “Trước hết tôi vẫn nghĩ cần phải có một phương hướng cải cách giáo dục, phải có một đề án cải cách giáo dục mang tính tổng thể và chiến lược phát triển giáo dục mà Bộ GD-ĐT vừa trình bày phải nằm trong đề án cải cách đó. Trong bối cảnh nền giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, nhiều vấn đề đang cần phải nghiên cứu thay đổi như hiện nay, việc đưa ra một bản chiến lược tổng thể phát triển giáo dục là chưa có cơ sở”.
Theo bà, sẽ có hàng loạt vấn đề phải giải quyết đồng bộ mà trước hết phải xác định lại sứ mạng giáo dục hiện nay và triết lý giáo dục sẽ nằm trong sứ mạng giáo dục đó là gì.
PGS Trần Quốc Toản, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nói trong quá trình đổi mới giáo dục cần phải đặt lên hàng đầu đổi mới tư duy, nhận thức, triết lý giáo dục vì đây là những vấn đề mang tính mở đường. Tiếp đến, những yếu tố giáo dục căn bản phải được nghiên cứu rõ cả về khoa học và thực tiễn. Và những vấn đề này không phải giao cho cơ quan quản lý hành chính thực hiện mà phải có cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm với những nghiên cứu cẩn trọng.
Bà Nguyễn Thị Bình kiến nghị: “Cần có một tổ chức làm nhiệm vụ xây dựng đề án tổng thể nêu ra được giải pháp, lộ trình để trình trung ương và Quốc hội theo quy định pháp luật. Tổ chức này có thể là Ủy ban cải cách giáo dục”.
Bắt đầu từ đâu?
Đổi mới quản lý giáo dục, thay đổi cơ cấu hệ thống giáo dục, thay đổi nội dung chương trình, đổi mới thi cử và xây dựng chính sách đối với nhà giáo... là những vấn đề được các nhà giáo dục cho rằng là then chốt của một cuộc chấn hưng giáo dục. Các ý kiến tại cuộc tọa đàm cũng đặc biệt quan tâm, thảo luận về việc nghiên cứu, xây dựng hệ thống quan điểm, triết lý giáo dục cho giai đoạn phát triển mới.
GS Hoàng Tụy cho rằng nên điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân để sau THCS, phần lớn học sinh sẽ vào học trung học hướng nghiệp, chỉ một tỉ lệ nhỏ học THPT. Với cấu trúc giáo dục quốc dân được điều chỉnh, sẽ khắc phục được tình trạng 80-90% học sinh phổ thông chỉ học để đi thi đại học và có thể thực hiện được việc sàng lọc, thắt chặt quản lý chất lượng đầu ra của đại học.
Cùng với việc điều chỉnh cấu trúc giáo dục, GS Hoàng Tụy đề nghị phải đổi mới cơ bản cách học và thi. Để khắc phục tình trạng học sinh lao vào học chỉ để thi và sự tốn kém, thiếu thực chất của kỳ thi cuối cấp, GS Hoàng Tụy cho rằng nên thực hiện việc kiểm tra ngay trong quá trình học và cuối các cấp học, học sinh chỉ cần làm một bài tiểu luận để kiểm tra kiến thức tổng hợp.
Theo PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ - nguyên phó Ban Tuyên giáo trung ương, người có nhiều năm gắn bó với ngành sư phạm, đổi mới đào tạo đội ngũ chính là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục.
Ông Vỳ kiến nghị cần sớm thực hiện các giải pháp: xây dựng chiến lược phát triển ngành sư phạm, nghiên cứu tìm kiếm mô hình mới để đào tạo giáo viên, đào tạo giáo viên theo hướng tích hợp ở các trường ĐH sư phạm, đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên theo chu kỳ thường xuyên, hoàn thiện các tiêu chuẩn tuyển dụng đầu vào và thực hiện nghiêm túc chế độ tuyển dụng giáo viên, nâng cao đãi ngộ đối với giảng viên, giáo viên...
Cùng quan điểm này, GS Hoàng Tụy nhấn mạnh: “Chính sách nhà giáo là vấn đề quan trọng nhất trong những vấn đề then chốt của việc đổi mới giáo dục”. Chất lượng giáo dục nâng lên, tiêu cực được đẩy lùi, việc thực hiện đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả, thiết thực... tất cả đều trông chờ vào một đội ngũ nhà giáo tâm huyết, có năng lực. Nhưng để có một đội ngũ như thế, chính sách phải thay đổi trước.
VĨNH HÀ - THANH HÀ (TTO)
9/17/2011
Blog hay hơn báo?
Một số tờ báo chính thống trong nước đã gọi các trang blog có lượng truy cập đông ở Việt Nam là “luồng gió độc”, khổ nổi càng cấm, càng đánh sập thì thiên hạ lại càng truy cập đông.
Đình Thư, phóng viên viết mảng chính trị xã hội tại một tờ nhật báo ở Sài Gòn, nói: “Mỗi buổi sáng, khi mở máy tính, tôi luôn vào điểm blog anhbasam trước tiên. Sau đó, còn thời gian tôi mới vào những tờ báo mạng khác”. Theo Thư, trang blog này có nhiều bài viết sâu sắc khó tìm được trên các báo, bên cạnh đó phần điểm báo của anhbasam thì không trang nào bì kịp ở sự chọn lọc, thông tin đa dạng và bình luận sắc sảo.
Xét về độ phủ, đa dạng về thông tin thì các blog không thể bằng các báo nhưng để đọc được những bài phân tích chuyên sâu thì phải nhờ đến các blog. “Với tôi các blog đang hay hơn các báo”, Gia Vinh - một hướng dẫn viên du lịch ở TP.HCM nhận xét. Vinh cho biết anh không có thời gian để đọc tất cả mà chỉ đọc những blog viết về các vấn đề xã hội, gai góc mà mình thích, như blog của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện; các nhà văn Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập; nhà báo như Đào Tuấn, Mai Thanh Hải; đến các blog của Người buôn gió, mẹ Nấm…
Đề tài trong các blog đôi khi không mới, có thể đã được các báo phản ánh, tuy nhiên các blogger luôn có một góc nhìn phản biện, dí dỏm. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, cũng là một blogger có tiếng, cho rằng: “Đọc blog sinh động hơn đọc báo, người viết thể hiện được cá tính qua bài viết”. Chính điều này đã làm cho các blog luôn có một lượng độc giả trung thành.
“Tất nhiên có nhiều bài viết, điều tra, phóng sự trên các tờ báo lớn như Tuổi trẻ, Thanh niên rất có chất lượng. Để viết được những bài như vậy, ngoài nhạy bén đề tài, không thể thiếu tư cách pháp nhân, sự đầu tư công sức, điều mà các blogger khó có thể làm được”, anh Thông - một nhân viên kinh doanh ‘nghiện’ blog nhìn nhận.
Cần thông tin hay tâm lý tụ tập?
Xã hội Việt Nam hiện nay không phải như những năm thế kỷ 20 trở về trước, quan nói gì dân chỉ biết nghe, tin và làm. Với sự phát triển của Internet, xã hội Việt Nam đã trở thành một xã hội đa kiểm chứng. Người dân cần kiểm chứng thông tin và muốn được chia sẻ với mọi người. Trong bối cảnh đó, các blog xuất hiện ngày càng đông và có chất lượng. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, cũng là một blogger rất nổi tiếng ở Việt Nam, cho rằng: “Báo chí trong nước còn nhiều bất cập so với lượng thông tin người dân cần, do vậy họ phải tìm đến blog”.
Nhiều nhà văn, nhà báo, người am hiểu đã sử dụng blog như sân sau khi không thể truyền tải những điều mình biết lên các công cụ xuất bản chính thống. Nhà văn đồng thời cũng là một blogger nổi tiếng Nguyễn Quang Lập tâm sự: “Blog có tính riêng tư, không bị biên tập, kiểm duyệt, nên ở đó người ta dễ nói thật hơn, dễ viết hơn”.
Blogger culangcat ngoài đời là một nhà báo lại chia sẻ: viết blog là cách hoàn thiện, chia sẻ giá trị cuộc sống, gây cảm hứng cho những đề tài nghiêm túc. Anh bắt đầu viết blog khi hai trận lũ lịch sử năm 2010 tràn qua quê hương mình (Quảng Bình) làm 74 người chết.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhìn nhận: “Chính cách viết sắc sảo, nhờ kinh nghiệm và vốn sống phong phú, ít né tránh các vấn đề, cập nhận thông tin nhanh, có tránh nhiệm đã khiến nhiều blog thu hút đông đảo người đọc”.
Tiến sĩ Huỳnh Văn Thông, Trưởng khoa Báo chí và Truyền thông, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, còn cho rằng người Việt Nam có tính tụ tập và thích tung hô, thể hiện, điều này cũng được mang vào trong văn hóa sử dụng blog. Tiến sĩ Thông dẫn chứng Yahoo 360 độ trước đây trên thế giới rất bình thường nhưng ở Việt Nam lại rất ‘hot’.
Kênh xuất bản
Tiến sĩ Thông nhận định thế giới Internet đang có sự phân công như các diễn đàn phục vụ nhu cầu chia sẻ, trao đổi về chuyên môn, còn mạng xã hội giải quyết nhu cầu giao tiếp, kết nối. So với các nước, điều kiện xuất bản của Việt Nam còn nhiều hạn chế nên nhiều người đã dùng chính blog của mình để làm kênh xuất bản.
Nhà văn Quyễn Quang Lập cho biết có đến 60% bài viết của ông không đăng ở đâu ngoại trừ blog của mình. Do vậy blog như kho tài liệu, công cụ xuất bản của tác giả.
Theo Tiến sĩ Thông, blog không cần chạy theo số lượng người truy cập, mà cần định hướng đối tượng quan tâm. Những ý kiến hay bình luận nghiêm túc sẽ tạo nên tính đồng sáng tạo và làm tăng giá trị của blog.
Nguồn: Xem tại đây
http://www.bayvut.com.au/nhịp-sống/người-việt-nghiện-blog-do-đâu
Đình Thư, phóng viên viết mảng chính trị xã hội tại một tờ nhật báo ở Sài Gòn, nói: “Mỗi buổi sáng, khi mở máy tính, tôi luôn vào điểm blog anhbasam trước tiên. Sau đó, còn thời gian tôi mới vào những tờ báo mạng khác”. Theo Thư, trang blog này có nhiều bài viết sâu sắc khó tìm được trên các báo, bên cạnh đó phần điểm báo của anhbasam thì không trang nào bì kịp ở sự chọn lọc, thông tin đa dạng và bình luận sắc sảo.
Xét về độ phủ, đa dạng về thông tin thì các blog không thể bằng các báo nhưng để đọc được những bài phân tích chuyên sâu thì phải nhờ đến các blog. “Với tôi các blog đang hay hơn các báo”, Gia Vinh - một hướng dẫn viên du lịch ở TP.HCM nhận xét. Vinh cho biết anh không có thời gian để đọc tất cả mà chỉ đọc những blog viết về các vấn đề xã hội, gai góc mà mình thích, như blog của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện; các nhà văn Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập; nhà báo như Đào Tuấn, Mai Thanh Hải; đến các blog của Người buôn gió, mẹ Nấm…
Đề tài trong các blog đôi khi không mới, có thể đã được các báo phản ánh, tuy nhiên các blogger luôn có một góc nhìn phản biện, dí dỏm. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, cũng là một blogger có tiếng, cho rằng: “Đọc blog sinh động hơn đọc báo, người viết thể hiện được cá tính qua bài viết”. Chính điều này đã làm cho các blog luôn có một lượng độc giả trung thành.
“Tất nhiên có nhiều bài viết, điều tra, phóng sự trên các tờ báo lớn như Tuổi trẻ, Thanh niên rất có chất lượng. Để viết được những bài như vậy, ngoài nhạy bén đề tài, không thể thiếu tư cách pháp nhân, sự đầu tư công sức, điều mà các blogger khó có thể làm được”, anh Thông - một nhân viên kinh doanh ‘nghiện’ blog nhìn nhận.
Cần thông tin hay tâm lý tụ tập?
Xã hội Việt Nam hiện nay không phải như những năm thế kỷ 20 trở về trước, quan nói gì dân chỉ biết nghe, tin và làm. Với sự phát triển của Internet, xã hội Việt Nam đã trở thành một xã hội đa kiểm chứng. Người dân cần kiểm chứng thông tin và muốn được chia sẻ với mọi người. Trong bối cảnh đó, các blog xuất hiện ngày càng đông và có chất lượng. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, cũng là một blogger rất nổi tiếng ở Việt Nam, cho rằng: “Báo chí trong nước còn nhiều bất cập so với lượng thông tin người dân cần, do vậy họ phải tìm đến blog”.
Nhiều nhà văn, nhà báo, người am hiểu đã sử dụng blog như sân sau khi không thể truyền tải những điều mình biết lên các công cụ xuất bản chính thống. Nhà văn đồng thời cũng là một blogger nổi tiếng Nguyễn Quang Lập tâm sự: “Blog có tính riêng tư, không bị biên tập, kiểm duyệt, nên ở đó người ta dễ nói thật hơn, dễ viết hơn”.
Blogger culangcat ngoài đời là một nhà báo lại chia sẻ: viết blog là cách hoàn thiện, chia sẻ giá trị cuộc sống, gây cảm hứng cho những đề tài nghiêm túc. Anh bắt đầu viết blog khi hai trận lũ lịch sử năm 2010 tràn qua quê hương mình (Quảng Bình) làm 74 người chết.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhìn nhận: “Chính cách viết sắc sảo, nhờ kinh nghiệm và vốn sống phong phú, ít né tránh các vấn đề, cập nhận thông tin nhanh, có tránh nhiệm đã khiến nhiều blog thu hút đông đảo người đọc”.
Tiến sĩ Huỳnh Văn Thông, Trưởng khoa Báo chí và Truyền thông, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, còn cho rằng người Việt Nam có tính tụ tập và thích tung hô, thể hiện, điều này cũng được mang vào trong văn hóa sử dụng blog. Tiến sĩ Thông dẫn chứng Yahoo 360 độ trước đây trên thế giới rất bình thường nhưng ở Việt Nam lại rất ‘hot’.
Kênh xuất bản
Tiến sĩ Thông nhận định thế giới Internet đang có sự phân công như các diễn đàn phục vụ nhu cầu chia sẻ, trao đổi về chuyên môn, còn mạng xã hội giải quyết nhu cầu giao tiếp, kết nối. So với các nước, điều kiện xuất bản của Việt Nam còn nhiều hạn chế nên nhiều người đã dùng chính blog của mình để làm kênh xuất bản.
Nhà văn Quyễn Quang Lập cho biết có đến 60% bài viết của ông không đăng ở đâu ngoại trừ blog của mình. Do vậy blog như kho tài liệu, công cụ xuất bản của tác giả.
Theo Tiến sĩ Thông, blog không cần chạy theo số lượng người truy cập, mà cần định hướng đối tượng quan tâm. Những ý kiến hay bình luận nghiêm túc sẽ tạo nên tính đồng sáng tạo và làm tăng giá trị của blog.
Nguồn: Xem tại đây
http://www.bayvut.com.au/nhịp-sống/người-việt-nghiện-blog-do-đâu
9/03/2011
8/31/2011
Các dạng toán trong dao động cơ học
Xin giới thiệu với các em HS lớp 12 loạt bài giảng Vật lý dùng ôn thi ĐH.
Chuyên đề: DAO ĐỘNG CƠ
VẤN ĐỀ 1: Các dạng toán trong dao động cơ học
Chuyên đề: DAO ĐỘNG CƠ
VẤN ĐỀ 1: Các dạng toán trong dao động cơ học
ẤN TƯỢNG CÀ PHÊ “BỆT” HÀN THUYÊN
Mời đọc bài viết dưới đây của tác giả Từ Thiên Hậu
Từ lâu rồi, lang thang cà phê “cóc”, cà phê “bệt” đó không còn là sở thích đặc biệt của nó. Đi học về là nó chỉ biết nằm úp mặt xuống giường để đánh một giấc ngon lành mới dậy ăn cơm tối, sau đó ôn lại bài. Cuộc sống ngày qua ngày của nó diễn ra một cách nhàm chán như vậy đó.
Đang suy nghĩ miên man, có khoảng chục chú cảnh sát đến hỏi giấy tờ xe. Bạn bè hốt hoảng cả lên, đứa thì đứng dậy lo dắt xe đi chỗ khác, đứa thì vội vội vàng vàng lấy giấy tờ xe trong ví ra, làm nó cũng lo sợ theo. Thì ra tụi nó đã vi phạm luật giao thông khi đậu xe ở lề đường. Mấy chú cảnh sát bảo: “Lần sau, mấy con có muốn ngồi đây thì phải đi gửi xe nhé”. Đó là ấn tượng thứ hai ở cà phê Hàn Thuyên khi lần đầu tiên nó đến.
Từ lâu rồi, lang thang cà phê “cóc”, cà phê “bệt” đó không còn là sở thích đặc biệt của nó. Đi học về là nó chỉ biết nằm úp mặt xuống giường để đánh một giấc ngon lành mới dậy ăn cơm tối, sau đó ôn lại bài. Cuộc sống ngày qua ngày của nó diễn ra một cách nhàm chán như vậy đó.
Nhưng suy nghĩ trong nó bắt đầu thay đổi kể từ hôm tụ tập với đám bạn học cùng quê. Nó nhớ hôm đó là một buổi chiều chủ nhật, sau khi ăn lẩu xong, một hội gồm 8 đứa tụi nó rủ nhau đi cà phê. Một list danh sách các quán cà phê dự định sẽ ghé được đưa ra.
Nó chợt suy nghĩ và cho ý kiến: “Bây giờ vào quán uống cà phê thì nhàm chán quá, giá cả lại đắt đỏ nữa, chi bằng tụi mình tìm một quán cóc nào đó ngồi tám chuyện trên trời, dưới đất cho vui”. Con nhỏ bạn thân nhanh nhảu đáp lại: “Uhm, hay tụi mình đến Cà Phê Hàn Thuyên đi”.
Cà phê Hàn Thuyên với bạn bè trong nhóm có vẻ rất thân thuộc, nhưng với nó, là một cái tên lạ lạ mà quen quen. Nó chắc chắn rằng nơi đó nó từng đi qua nhưng không để ý thôi.
Cà phê Hàn Thuyên với bạn bè trong nhóm có vẻ rất thân thuộc, nhưng với nó, là một cái tên lạ lạ mà quen quen. Nó chắc chắn rằng nơi đó nó từng đi qua nhưng không để ý thôi.
Nghe đến cái tên Hàn Thuyên, nó nghĩ: “Chắc cũng sang trọng lắm đây!”. Ngồi sau lưng thằng bạn, nó cứ thắc mắc: “Cà phê Hàn Thuyên là chỗ nào vậy, sao tui chẳng biết”. Thắng bạn cằn nhằn đáp lại: “Bà suốt ngày đi học rồi về nhà đóng cửa, lại học, có đi chơi với tụi tui đâu mà biết với không biết. Ngồi đó đi, tới nơi khắc biết”. Nghe bạn đáp lại, nó chỉ biết im lặng.
Đến một công viên gần nhà thờ Đức Bà, Dinh Thống Nhất, thằng bạn bảo: “Đến rồi đó bà, caphê Hàn Thuyên là đây đó”. Nó thầm nghĩ trong đầu: “Là đây ư! Đúng là tôi vẫn hay đi qua mà không biết”.
Ấn tượng đầu tiên của nó về cà phê ở công viên Hàn Thuyên đó là một vị trí cực đẹp giữa những công trình kiến trúc tuyệt vời tại Sài Gòn. Những hàng cây to lớn, gió thổi vi vu cảm giác thật thoáng mát, trái lại cái nắng oi bức, ngột ngạt của Sài Gòn vào ban ngày. Ngồi ở đây thật thích, nó được ngắm cảnh đường phố nhộn nhịp của Sài Gòn, được nghe những câu chuyện thú vị từ mọi người xung quanh.
Theo quan sát của nó thì chỗ ngồi của cà phê Hàn Thuyên đúng là rất đặc biệt: Đó là những gờ xi măng bao quanh bãi cỏ xanh mướt của công viên. Khách chủ yếu là học sinh, sinh viên, công chức, hoặc những gia đình ở khu vực này ra ngồi hóng mát. Họ ngồi thành hàng dài sát nhau dọc theo con đường Hàn Thuyên nhỏ bé. Nếu đến muộn bạn sẽ không có một vị trí ưng ý.
Không cần máy lạnh hay sự sang trọng, những bầu không khí tại cà phê Hàn Thuyên thật yên bình, trong lành, tách hẳn khỏi sự ồn ào, náo nhiệt và xô bồ của phố xá. Nó cảm giác như tâm mình đã tỉnh lại hơn, chiêm nghiệm được nhiều điều hơn về cuộc sống hiện tại mà lâu nay nó vốn bỏ quên.
Không cần máy lạnh hay sự sang trọng, những bầu không khí tại cà phê Hàn Thuyên thật yên bình, trong lành, tách hẳn khỏi sự ồn ào, náo nhiệt và xô bồ của phố xá. Nó cảm giác như tâm mình đã tỉnh lại hơn, chiêm nghiệm được nhiều điều hơn về cuộc sống hiện tại mà lâu nay nó vốn bỏ quên.
Ngồi được khoảng 5 phút, có “nhân viên” đến đưa cho mỗi bạn một tờ báo để làm “ghế ngồi” và viết “order”. Nhân viên ở đây chủ yếu là những người lao động nghèo, hằng ngày họ đẩy xe đến đây để bán từng ly cà phê, nước ngọt với giá bèo không quá 10.000đ để kiếm sống, đúng là giá cả rất phải chăng giữa khu vực trung tâm thành phố. Nó rất thích cái dân giã ấy.
Đang suy nghĩ miên man, có khoảng chục chú cảnh sát đến hỏi giấy tờ xe. Bạn bè hốt hoảng cả lên, đứa thì đứng dậy lo dắt xe đi chỗ khác, đứa thì vội vội vàng vàng lấy giấy tờ xe trong ví ra, làm nó cũng lo sợ theo. Thì ra tụi nó đã vi phạm luật giao thông khi đậu xe ở lề đường. Mấy chú cảnh sát bảo: “Lần sau, mấy con có muốn ngồi đây thì phải đi gửi xe nhé”. Đó là ấn tượng thứ hai ở cà phê Hàn Thuyên khi lần đầu tiên nó đến.
Lúc ra về, thằng bạn còn ghé vào tai mình một câu: “Bà đã biết cà phê HànThuyên chưa?”. Tôi chỉ biết nhoẻn miệng cười.
Nó đặt lại tên cho “quán” cà phê ỏ đây là cà phê “bệt” Hàn Thuyên. Ngày hôm đó nó thật sự rất vui.
- Từ Thiên Hậu
Mở ngành Công nghệ Đa phương tiện bậc đại học
Ngày 26/8 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Quyết định cấp phép cho Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông (đơn vị thành viên của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam - VNPT) được tổ chức tuyển sinh và đào tạo ngành Công nghệ Đa phương tiện trình độ đại học, cao đẳng hệ chính quy ngay trong năm học 2011-2012.
Đây là lần đầu tiên ngành này được đào tạo ở bậc đại học tại Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên có thể đảm nhận vị trí cán bộ kỹ thuật thiết kế đồ họa 2D/3D, hoạt hình, games, thiết kế web, tư vấn và thiết kế quảng cáo, nội dung đa phương tiện, sản xuất phim điện ảnh và truyền hình kỹ thuật số...
Với khung chương trình đào tạo mới do Học viện Bưu chính viễn thông xây dựng và đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định, phê duyệt, các trường đại học khác từ nay có thể dùng chung khung chương trình này để tổ chức đào tạo ngành Công nghệ Đa phương tiện.
Ngay sau khi được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép, Học viện Bưu chính viễn thông đã ký kết Biên bản hợp tác toàn diện với Đại học Đa phương tiện Malaysia (Malaysia Multimedia University - MMU) trong lĩnh vực này.
Với chương trình đào tạo tiên tiến và với chất lượng đào tạo hoàn toàn tuân thủ theo tiêu chuẩn đại học Anh quốc, Đại học MMU Malaysia được đánh giá và công nhận là một trong những trường đại học hàng đầu của khu vực và của thế giới về đào tạo ngành Đa phương tiện. Hiện nay, Đại học Đa phương tiện Malyasia đào tạo 12 chuyên ngành liên quan đến ngành đa phương tiện với quy mô hơn 20.000 sinh viên, trong đó có 4.200 sinh viên quốc tế đến từ 75 quốc gia khác nhau.
Bên cạnh việc hợp tác với Đại học Đa phương tiện Malaysia, Học viện dự kiến sẽ ký thỏa thuận liên kết đào tạo với hàng chục trường đại học trên toàn quốc.
Học viện Bưu chính viễn thông cho biết, ngay trong đợt tuyển sinh năm 2011, trường sẽ tuyển khoảng 100 sinh viên chuyên ngành này.
Với việc đưa ngành đào tạo Công nghệ đa phương tiện vào trường đại học, trong những năm tới, sẽ có nguồn nhân lực mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội theo xu hướng phát triển, hội tụ liên kết giữa các ngành công nghệ với các ngành xã hội và nghệ thuật, qua đó nhanh chóng hình thành và đáp ứng tốt nhu cầu phát triển nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực đa phương tiện của Việt Nam./.
Nguồn: Phạm Mai (Vietnam+)
Đây là lần đầu tiên ngành này được đào tạo ở bậc đại học tại Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên có thể đảm nhận vị trí cán bộ kỹ thuật thiết kế đồ họa 2D/3D, hoạt hình, games, thiết kế web, tư vấn và thiết kế quảng cáo, nội dung đa phương tiện, sản xuất phim điện ảnh và truyền hình kỹ thuật số...
Với khung chương trình đào tạo mới do Học viện Bưu chính viễn thông xây dựng và đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định, phê duyệt, các trường đại học khác từ nay có thể dùng chung khung chương trình này để tổ chức đào tạo ngành Công nghệ Đa phương tiện.
Ngay sau khi được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép, Học viện Bưu chính viễn thông đã ký kết Biên bản hợp tác toàn diện với Đại học Đa phương tiện Malaysia (Malaysia Multimedia University - MMU) trong lĩnh vực này.
Với chương trình đào tạo tiên tiến và với chất lượng đào tạo hoàn toàn tuân thủ theo tiêu chuẩn đại học Anh quốc, Đại học MMU Malaysia được đánh giá và công nhận là một trong những trường đại học hàng đầu của khu vực và của thế giới về đào tạo ngành Đa phương tiện. Hiện nay, Đại học Đa phương tiện Malyasia đào tạo 12 chuyên ngành liên quan đến ngành đa phương tiện với quy mô hơn 20.000 sinh viên, trong đó có 4.200 sinh viên quốc tế đến từ 75 quốc gia khác nhau.
Bên cạnh việc hợp tác với Đại học Đa phương tiện Malaysia, Học viện dự kiến sẽ ký thỏa thuận liên kết đào tạo với hàng chục trường đại học trên toàn quốc.
Học viện Bưu chính viễn thông cho biết, ngay trong đợt tuyển sinh năm 2011, trường sẽ tuyển khoảng 100 sinh viên chuyên ngành này.
Với việc đưa ngành đào tạo Công nghệ đa phương tiện vào trường đại học, trong những năm tới, sẽ có nguồn nhân lực mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội theo xu hướng phát triển, hội tụ liên kết giữa các ngành công nghệ với các ngành xã hội và nghệ thuật, qua đó nhanh chóng hình thành và đáp ứng tốt nhu cầu phát triển nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực đa phương tiện của Việt Nam./.
Nguồn: Phạm Mai (Vietnam+)
8/30/2011
8/26/2011
AI VIẾT GIA HUẤN CA?

Khảo cứu bài minh văn trên đỉnh trầm. Ảnh: Internet.
AI VIẾT GIA HUẤN CA
Hoàng Văn Lâu
(Nguồn: xem tại đây)
Từ lâu, nhiều người đã chú ý tới vấn đề tác giả của Gia huấn ca. Bản in xưa nhất của tác phẩm này hiện còn được biết là chữ Quốc ngữ, in năm 1894(1). Bản in bằng chữ Nôm sớm nhất còn giữ được xuất hiện sau đó hơn 10 năm, vào 1907(2). Mặc dù trong lời giới thiệu cho lần xuất bản năm 1894, Nordemann, một học giả người Pháp, lúc đó là Giám đốc Nha học chính Nam Kỳ, đã quả quyết Gia huấn ca là “của quan tướng công triều nhà Lê là Nguyễn Trãi”(3), mặc dù ở bản in chữ Nôm, Nhà xuất bản Quan văn đường đã gắn tên Nguyễn Trãi với tên tác phẩm, thành một cái tên sách dài dòng “Lê triều Nguyễn tướng công Gia huấn ca”(4), nhưng hình như không phải ai cũng tin hẳn điều đó. Trong khi nhiều nhà nghiên cứu giảng dạy về Nguyễn Trãi và Gia huấn ca, thì cũng có không ít các học giả khác tỏ ra hoài nghi. Có thể lấy những lời nhận xét có tính chất “phê phán văn bản” của nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn làm tiêu biểu: “… Các chữ cổ thường thấy trong những bài chắc chắn soạn vào thời Lê ở đây thấy rất ít, vả trong một vài nơi có nói đến các thứ đánh bạc như tổ tôm, tam cúc, chắn, đố mười, không biết những trò chơi ấy đã có từ đời Nguyễn hay chưa? Nói tóm lại, ta không có chứng gì nhận chắc quyết lời lời tục truyền rằng tập gia huấn ca này là của Nguyễn Trãi”(5). Thi Nham Đinh Gia Thuyết, khi xuất bản Gia huấn ca, cũng nhận xét rằng Gia huấn ca “lời văn bình thường”, “khác hẳn với ngòi bút Bình Ngô đại cáo” sở dĩ ông xuất bản sách này vì nó “đã được truyền tụng, được liệt vào cổ văn Việt Nam”, mặc dù biết “không chắc là của cụ Nguyễn Trãi”(6)). Cái lối “bỏ vào một rọ” những tác phẩm “được liệt vào cổ văn Việt Nam” trên đây hẳn là không thích hợp khi cần phải tìm hiểu một tác gia, một thời kì lịch sử nhất định, nhất là khi tác gia ấy lại là nhân vật quan trọng như Nguyễn Trãi. Vì thế, 17 năm sau, trên Tập san Văn Sử Địa xuất hiện một chuyên luận đăng làm hai kì của Nguyễn Hồng Phong: Tìm hiểu Gia huấn ca(7). Trong bài nghiên cứu công phu này, tác giả đã để một phần quan trọng tìm hiểu tư tưởng, nội dung và hình thức ngôn ngữ của tác phẩm, đi tới “khẳng đinh dứt khoát Gia huấn ca không phải của Nguyễn Trãi”(8). Nhưng sau bài này, giới thiệu nghiên cứu và giảng dạy về Nguyễn Trãi vẫn có người ghi nhận bản quyền tác giả của Gia huấn ca cho Nguyễn Trãi(9). Cho đến mùa xuân 1982, trên Tạp chí Văn học vẫn còn nhà nghiên cứu phải đặt câu hỏi “Gia huấn ca có phải của Nguyễn Trãi không?”(10), dù kết luận của bài viết nghêng về phía phủ định của tác giả Gia huấn ca là Nguyễn Trãi.
Xem ra vấn đề cũng không đơn giản. Bởi vì, dù về tư tưởng tác phẩm, nội dung hiện thực mà nó phản ánh hay hình thức ngôn ngữ văn chương mà nó biểu hiện có mâu thuẫn với con người Nguyễn Trãi hay thời đại Nguyễn Trãi, thì người ta vẫn có thể quan niệm như tác giả của Thi văn Việt Nam cách đây hơn 30 năm: “Nếu thật {Gia huấn ca} là của ông {Nguyễn Trãi} soạn thì sự sao đi chép lại bởi người đời sau và nhất là đời Nguyễn đã làm cho phần văn cổ đã bị sửa chữa nhiều rồi”(11). Và mặc dù trong các thư tịch cũ, không thấy đâu nói tới một Gia huấn ca nào của Nguyễn Trãi, nhưng Dương Bá Cung có nói Nguyễn Trãi viết Ngọc đường di phạm(12) thì người ta vẫn có quyền đặt câu hỏi: phải chăng có thể tìm thấy một chút bóng dáng của nó trong Gia huấn ca hay một phần của Gia huấn ca.
Như vậy, việc tìm tác giả “đích thực” cho sách này quả là có sự cần thiết nhất định. Nhưng, như các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ: Gia huấn ca là một tập hợp 6 bài ca theo chủ điểm giáo dục gia đình mà bất luận về nội dung tư tưởng hay hình thức ngôn ngữ văn chương đều chứng tỏ chúng không phải do một tác giả soạn ra. Chúng tôi tán thành “dự đoán”khoa học này, Nhân tiện, xin nói thêm: hai bài cuối, bài ca thứ 5 Dạy học trò ở cho phải đạo và bài thứ sáu Khuyên học trò phải chăm học, đều là những “lời thầy dạy” đối với “những kẻ học trò” ở “trước của khổng” thì đã vượt ra ngoài phạm vi “gia huấn ca” rồi.
Chúng tôi đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi được nêu từ kho thư tịch và tư liệu Hán Nôm. Bài đầu tiên trong số 6 bài của Gia huấn ca được chép trong một văn bản chép tay, ký hiệu AB.532 thuộc kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách này có tên ghi ở ngoài bìa là Khuyết hiến ca, gồm 44 trang, khổ 20x13, sách đã cũ, chữ viết có chỗ đã mờ. Trong sách chép ba tác phẩm Nôm: Khuyết hiếu ca, Trường hận ca (bản dịch Nôm) và Cảnh Phụ Châm. Cảnh phụ châm gồm 26 bài trang cuối là toàn bộ bài ca thứ nhất của Gia huấn ca mà trong Lê triều Nguyễn tướng công Gia huấn ca có tên là Bài ca dạy vợ dạy con. Điều đáng chú ý là bản này còn giữ lại được lời chú, một Nguyên tự của tác giả và một bài Bạt ở cuối sách. Lời ghi chú viết rằng: “đoạn nói về đạo Phật trong Phụ châm (tức cảnh phụ châm) thì những tu thiền chưa chắc đều đã thế cả, độc giả cũng đừng vì thế mà chê cười họ”. Nhận thấy bài Nguyên tự có thể soi sáng rất nhiều về lai lịch văn bản và về tác giả, chúng tôi xin dịch giới thiệu toàn bộ dưới đây:
“Việc giáo dục là không thể thiếu được. Người không phải dạy mà hiểu biết mọi điều là nhất rồi. Nhưng trong thiên hạ thì những người tài năng vào loại trung bình là nhiều hơn cả. Cho nên không thể không có giáo dục. Đến như bọn học trò, từ tuổi nhi đồng lên bảy, đều được theo học, mà những phương pháp dạy bảo bọn chúng thì cũng chứa đầy trong sách vở cả rồi, chẳng cần ta phải thừa lời nói nhàm. Còn như khách quần thoa son phấn, mà chịu để sức xem xét, ra công trước thuật như nàng Thái, ả Tạ thì thực là hiếm lắm. Đối với bọn họ lại càng không thể không giáo dục. Nhưng nếu như chữ nghĩa trúc trắc, giọng văn cao xa, thì lại không thể nhớ mà ngâm nga được. {Cho nên}, nhân lúc dạy học rỗi rãi. {ta} nhặt nhạnh những câu cách ngôn cổ và những câu ca dao, tục ngữ bằng quốc ngữ có thể làm lời khuyên răn được, sắp thành hơn 40 điều diễn ra quốc âm để làm chân ngôn cho bọn đàn bà con gái. Nhân thế mới đặt tên là “Phụ châm”. Ta nghĩ rằng: bản thân mình đúng đắn thì không bắt buộc mà người ta vẫn theo, nếu bản thân mình không chính đáng thì làm sao mà sửa lỗi cho người khác? Quá trình tự tu dưỡng của ta rất thiếu sót. Đã định sửa bỏ lỗi lầm mà vẫn chưa xong thì lấy gì mà dạy người khác? Nhưng rồi lại tự nghĩ rằng: có đạo làm cha mẹ là có trách nhiệm với cả gia đình, {như thế} thì {ta} lại là tấm gương mà cả nhà trông vào, phải làm cho cả nhà kính phục mà hiểu đạo tôi con, chứ đâu chỉ là việc dạy dỗ? Cho nên, ta quên mình gàn dở, hủ lậu, viết ra thành lời để dạy những người trong nhà, chỉ là lời châm riêng cho một gia đình ta truyền nhau học tập thôi” (Phụ châm nguyên tự: “Thậm hĩ. Thiên hạ duy trung tài tối đa. Thị dĩ bất khả vô giáo. Thả như tử đệ bối trung tự nhất tuế thành đồng mạc bất hữu học. Sở dĩ giáo tri chi đạo ư thư vô dư uẩn hĩ, hựu phi dư chi sở tất nhuế dã. Nhược phù nghiệp quần thoa sụ phấn đại nhi năng cù ư quan lãm công ư trước thuật như Thái, Tạ giả thành tiễn yên. Thị vưu bất khả dĩ vô giáo dã. Cố kỳ văn tự chi cật khúc, từ điệu chi thanh tao, tắc hựu bất đắc nhi thành tung giả. Khoá chi hạ nhân xuyết thập cổ chi cách ngôn dữ quốc ngữ, lý ngữ khả vi giám giới giả liệt vi tứ thập dư điều, diễn chi Quốc âm, dĩ vi phụ châm, nhân nhan yên. Duy kì thân chính bất lệnh nhi tòng, kỳ thân bất chính như chính nhân hà? Dư ư tự trị công thậm sơ, thường dục cải quá nhi vị thành giả, nhi hà dĩ giáo nhân tai? ức hựu tự niệm viết: hữu phụ mẫu chi đạo, tư hữu nhất gia chi trách, tắc hựu nhất gia chi sở chiêm thị giả. Sử chi tụng nhi tri chi, độc bất hựu ngôn giáo hồ? Toại vong kỳ cố lâu, thư dĩ giáo chi, tư vi nhất gia chi truyền tập yên nhĩ, châm vân hồ tai. Thị vi tự”).
Ngoài động cơ, mục đích khi viết Phụ châm và đôi nét rất kín đáo về tác giả, bài Nguyên tự còn cho chúng ta biết:
1. Tên của tác phẩm này (tức bài thứ nhất trong Gia huấn ca) là Phụ châm.
2. Phụ châm được tác giả sáng tác dựa trên những cách ngôn cổ và những câu ca dao, tục ngữ bằng quốc ngữ.
Vậy ai viết Phụ châm? Tiếc rằng bài Nguyên tự này không kí tên tác giả. Nhưng bài Bạt viết (dịch): “Người đàn bà có ngoan hay không là do ở gia đình và có quan hệ tới sự thịnh suy của đạo nội trợ. Như vậy thì việc răn dạy không thể bỏ qua được. Xưa nay, những khuôn mẫu trong chốn buồng the được diễn thành quốc ngữ, phổ vào luật như Nữ tắc của Trần Thị thì cũng thường có đấy. Nhưng chỉ có Phụ Châm là sáng tác của Yên (An)(13) Thái Tôn sư. Trong đó các điều về thờ phụng tổ tông, hiếu kính cha mẹ, theo chồng nuôi con… so với các bài huấn khác thì gọn gàng, sáng sủa và dễ hiểu hơn cả. Sách này phải để cho chốn khuê môn thuộc lòng mà thấu hiểu, thì rồi mới có thể giữ được những điều tốt lành cho các nhà phú gia. Vì thế, ghi vào cuối sách”(14).
Bài Bạt này khẳng định rằng tên tác phẩm là Phụ châm, rằng trước Phụ châm có nhiều bài ca răn dạy phụ nữ được “diễn thành quốc ngữ, phổ vào âm luật” như Nữ tắc của Trần Thị…, nhưng chỉ có Phụ châm của Yên Thái Tôn sư là gọnn gàng, sáng sủa và dễ hiểu hơn cả. Vậy Yên Thái Tôn sư là ai? Một vị thầy tôn kính ở Yên Thái. Yên Thái là ở đâu? Hà Nội có phường Yên Thái, nhưng Nghệ An cũ, Thanh Hoá, Sơn Tây cũ, Nam Định cũ cũng có những địa danh An Thái hoặc Yên Thái…
Xuyết thập tạp ký. Lược truyện các tác gia và Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác gia đều ghi nhận là Lý Văn Phức có viết sách Xuyết thập tạp ký(15). Nhưng thực ra, nhà sáng tác hoặc nghiên cứu nào chẳng có trong tay một tâp “Nhặt nhạnh ghi chép”( tức “Xuyết thập tạp ký”)? Hiện nay kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ít nhất 2 tập sách mang tên là Xuyết thập tạp ký. Một sách có kí hiệu là A.1792 gồm vài câu đối, còn toàn bộ là một tập thơ, chủ yếu thơ chữ Hán, chưa rõ tác giả là ai, vì nội dung của sách không phù hợp với bài tự của Lý Văn Phức ghi trong tập Xuyết thập tạp ký của ông(16). Một sách khác có kí hiệu là AB.132. Sách này ngay ở trang đầu có bài tự của tác giả, ký tên: Vĩnh Thuận Khắc Trai Lý Văn Phức Lân Chi. Sách này có hai phần rõ rệt: phần đầu là sưu tập những truyền thuyết và giai đoạn “chưa thấy ghi trong dã sử”, đúng như nội dung mà bài tự của tác giả đã ghi rõ: phần sau là tập hợp các sáng tác bằng chữ Nôm của Lý Văn Phức. Phần thứ hai này hẳn là do người khác biên tập, vì một dấu vết khá rõ là: dưới mỗi tác phẩm đều có ghi những dòng chữ kiểu như “Lý Hồ Khẩu tiên sinh soạn…”. Về mức độ tin cậy của bản Xuyết thập tạp ký có ký hiệu AB. 132 này, có thể dẫn lời nhận xét về văn bản này được ghi lại bằng bút sắt (chưa rõ tên người ghi) trong trang đầu của Nhị thập tứ hiếu diễn ca: “Hiệu đính (Nhị thập tứ hiếu diễn ca) căn cứ theo bản AB.132. Bản AB.132 này có thể là bản sao của các bản thảo cũ của Lý Văn Phức”(17).
Phụ châm được chép ở phần cuối sách này, từ 137 đến trang 154, có tên là Phụ châm tiện lãm. Ngay dưới đầu đề, có dòng chữ “Lý Hồ Khẩu tiên sinh soạn…”.
Tới đây, Phụ châm (hay Cảnh phụ châm, hay Phụ châm tiện lãm) đã được ghi nhận trong một văn bản đáng tin cậy, là do Lý Văn Phức người làng Hồ Khẩu huyện Vĩnh Thuận, Hà Nôi, soạn thảo. Điều này hoàn toàn phù hợp với lời bài Bạt trong Cảnh phụ châm, kí hiệu AB.532, nói rằng Phụ châm là tác phẩm của Yên Thái Tôn sư(18).
Viết Phụ châm, Lý Văn Phức đã thể hiện một khuynh hướng sáng tác khá rõ nét trong cuộc đời trước thuật của mình. Vị “Yên Thái Tôn sư” này, trong thời gian ngồi dạy trẻ ở Hồ Khẩu, hay Yên Thái, đều rất quan tâm đến vấn đề giáo dục nói chung và vấn đề đạo đức nói riêng. Nhị thập tứ hiếu diễn ca, Phụ châm và một số tác phẩm Hán, Nôm khác của ông đã được sáng tác theo xu hướng đó. Mặt khác Phụ Châm cũng mang những đặc điểm trong sở trường và cả sở đoản của ngòi bút Lý Văn Phức. ở mặt này, Phụ châm có một bước tiến so với Nhị thập tứ hiếu diễn ca cả về tư tưởng lẫn hình thức ngôn ngữ văn chương. Lý do của bước tiến này là chính ở cái cội nguồn “ca dao tục ngữ bằng quốc ngữ” mà tác giả rất có ý thức sưu tầm, chắt lọc như bài Nguyên tự đã nói. Nhưng có được sự trau dồi về “quốc ngữ” đến mức độ này cũng không thể một sớm, một chiều. Phải sau chặng đường đời hẳn là không ít sóng gió, ngẫm nghĩ lại cả một “quá trình tự tu dưỡng… rất thiếu xót” của bản thân, thì mới có được những “ý tình đôn hậu đáng làm khuôn phép cho việc giáo huấn gia đình”(19) qua những câu thơ Nôm khá tự nhiên, thanh thoát. Vì thế, chúng tôi cho rằng Phụ châm được tác giả viết vào cuối đời mình, những năm 40 của thế kỷ trước, sau ngày mất của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi bốn thế kỷ!
Như vậy, bài ca thứ nhất trong Gia huấn ca được Edmond Nordemann, Quan văn đường và nhiều người khác gắn với tên tuổi của Nguyễn Trãi, có các tên gọi “Bài ca dạy vợ dạy con” (bản in của Quan văn đường năm 1907), “Cảnh phụ châm” (Khuyến hiến ca, sách chép tay, ký hiệu AB.132) là một tác phẩm của Lý Văn Phức, được tác giả chính thức đặt cho cái tên ban đầu là Phụ châm, gồm 308 câu thơ Nôm trong tổng số 796 câu của cả sáu bài ca trong Gia huấn ca.
Vấn đề đặt ra là: vào thời điểm Edmond Nordemann, in Gia huấn ca, các bản Phụ châm được lưu hành hẳn có Nguyên tự, Bạt và nhất là những kí ức về tác giả của nó (Lý Văn Phức) hẳn còn rõ nét trong tầng lớp sỹ phu đương thời, nhưng vì sao Phụ châm lại “nhảy vào”chiếm vị trí thứ nhất trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi? Con đường truyền bản của Phụ châm có phải như một nhà nghiên cứu đã nói: “Đương thời có lưu hành trong nhân dân một số bài thơ với đầu đề và tính cách luân lý… của những tác giả vô danh. Rồi trong sách cũ lại có nói Nguyễn Trãi làm một tập thơ Nôm nhan đề là Gia huấn ca, thì một nhà văn nào đó tưởng rằng những bài thơ kia là tập Gia huấn ca của Nguyễn Trãi, nên đã sưu tầm lại, sắp xếp lại cho vào tập rồi đặt cái tên chung Gia huấn ca”(20) không? Hay rốt cục, toàn bộ Gia huấn ca” cũng chỉ là nguỵ thư như kiểu Lĩnh Nam dật sử của Trần Nhật Duật(21)? Đây đúng là hiện tượng “râu ông cằm bà” thường thấy trong các tác phẩm Hán Nôm, nhưng muốn lý giải đầy đủ và chính xác nguyên nhân của sự “nhầm lẫn tai hại” này đối với Gia huấn ca nói chung và Phụ châm nói riêng, hẳn còn cần các dữ kiện mà bài viết này còn chưa đủ. Trong điều kiện tư liệu nắm được, dù chưa trả lời đầy đủ câu hỏi được nêu, chúng tôi cũng xin cung cấp những cứ liệu ban đầu để những ai quan tâm tới vấn đề có thêm bằng chứng để giải quyết, hoặc dự đoán các khả năng “có thể” là của ai đối với những bài còn lại.
CHÚ THÍCH
(1) (3) Edmond Nordemann: Nguyễn Chai Da huấn ca. Bản in lần thứ hai, Huế, 1907.
(2) (4) Lê triều Nguyễn tướng công Gia huấn ca; Quan văn đường tàng bản, Thánh Thái Đinh Mùi (1907). Bản của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ký hiệu AB. 406.
(5) Hoàng Xuân Hãn: Thi văn Việt Nam, Sông Nhị, Hà Nội, 1951.
(5) Thi Nham Đinh Gia Thuyết: Gia huấn ca, Tân Việt, Sài Gòn, 1953.
(7) (8) Nguyễn Hồng Phong: Tìm hiểu Gia huấn ca , Tập san Văn Sử Địa số 27 và 29, tháng 4 và tháng 6 năm 1957.
(9) Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Cương: Văn học Việt Nam tập I, Nxb, Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978; Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác gia, bản in rô-nê-ô, 1977.
(10) Đoàn Khoách: Gia huấn ca có phải của Nguyễn Trãi không? Tạp chí Văn học số 1, năm 1982, tr. 56.
(11) Hoàng Xuân Hãn: Sách đã dẫn.
(12) Dương Bá Cung: ức Trai tập tự, Phúc Khê nguyên bản, bản in năm Tự Đức Mậu Thìn, ký hiệu A. 139.
(13) Chữ 安 có hai âm đọc: an hoặc yên.
(14) Nguyên văn: “Phụ chi hiền phổ, gia chi sở do, nhi thịnh suy nội trợ chi hệ. Như thử tắc huấn chi bất khả hốt dã. Cổ lai khổn thức, diễn chi Quốc ngữ, hiệp chi âm luật như Trần Thị chi Nữ tắc giả vãng vãng hữu chi. Duy phụ châm nãi An Thái Tôn sư sở trước. Tựu trung phụng tổ tông, hiếu công cô dữ phù tòng phu dưỡng tử chư điều tỷ chư huấn vưu vi giản minh dị hiểu. Tất sử khuê vi trung tụng nhi tri chi, nhiên hậu khả dĩ bảo kỳ phú gia chi cát. Nhân lục chi vu tập hậu”.
(15) Xem Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr. 390, và Thư mục Hán Nôm-Mục lục tác gia, tr. 146.
(16) Thư mục Hán Nôm-Mục lục tác gia ghi nhận bản Xuyết thập tạp ký A. 1792 là của Lý Văn Phức.
(17) Nhị thập tứ hiếu diễn ca đóng trong một tập sách có tên là Dương Tiết diễn nghĩa, ký hiệu VHv. 1259, kho sách Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(18) Hồ Khẩu và Yên Thái là hai làng liền nhau thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận của Hà Nội cũ. Làng Hồ Khẩu, nơi hiện còn đền thờ Lý Văn Phức, vẫn được gọi là phố Yên Thái (xem Đương phố Hà Nội của Nguyễn Vĩnh Phúc - Trần Huy Bá, Nxb. Hà Nội, 1979, tr. 442).
(19) Đoàn Khoách: Bài đã dẫn.
(20) Nguyễn Hồng Phong: Bài đã dẫn.
(21) Trên tờ tạp chí Nam phong từ số 48 năm 1921, xuất hiện thiên tiểu thuyết lịch sử dài, đăng làm nhiều kỳ, tên là Lĩnh Nam dật sử, đề là tác phẩm của Trần Nhật Duật. Đây là một cuốn nguỵ thư mà ít lâu sau khi cho đăng, Nguyễn Bá Trác, đồng chủ bút tờ Nam phong, đã phải viết bài cải chính (xem Lĩnh Nam dật sử nghi án, Nam phong số 53, 1921).
Nguồn: Tập san Hán Nôm số 1-1984.
*Tác giả Hoàng Văn Lâu đã mất.
GIA HUẤN CA
Gia huấn ca tương truyền do Nguyễn Trãi sáng tác, hiện nay vẫn còn tồn nghi về tác giả đích thực của tác phẩm này.
(Nguồn: vi.wikisource)
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.
5Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
10Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
15Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm,
20Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh
25Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
30Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
35Hoặc khi hội hát linh đình,
Được lời dạy đến thì mình hãy ra,
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày,
40Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
45Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa.
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,
50Đừng đảo điên có nói làm không.
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai
55Cầm cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai ?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,
60Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
65Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,
70Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
75Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
80Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
85Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
90Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,
95Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày
100Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
105Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
110Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
115Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi.
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
120Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
125Sách có chữ "nhập gia vấn húy",
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
130Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
135Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm
140Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân" làm lòng.
145Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.
In lấy chữ tao khang chi nghị,
150Đừng mang câu đố kỵ chi thường.
Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
155Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai ?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
160Ấm no nên xót lấy người bơ vơ
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ "tùy" rắn khúc nghi gia.
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.
165Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
170Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
175Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
180Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa, ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
185Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch.
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
190Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
195Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.
Ắy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,
200Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
205Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng,
210Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần.
215Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
220Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
225Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước,
230Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
235Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
240Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
245Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,
250Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
255Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy.
Bọt bèo là phận nô tỳ,
260Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo riết người ta.
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
265Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi.
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
270Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
275Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
280Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
285Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
290Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi.
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
295Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
300Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
305Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
310Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
315Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng; ngày đói tháng đông,
320Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung,
Sống không, thác lại tay không có gì.
325Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
330Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
335Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
340Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.
345Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
350Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
355Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!
Thấy người mà phải lo ta,
360Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.
365Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.
Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,
370... (thiếu một câu)
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
375Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
380Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
385Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
390Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
395Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
400Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
405Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
410Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách,
Câu "hữu trai" nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
415Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
420Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
425Siêng năng thì chăm chú việc ta.
Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
430Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy rắng "giữ lửa chẳng chơi".
Cho hay đại phú bởi trời,
435Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
440Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
445Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì.
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
450Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường
455Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.
Có chữ rằng: "đạo trọng thân thân",
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
460Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
465Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,
470Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
475Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
480Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
485Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,
490Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
495Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung.
500Dạy những kẻ đàn bà con gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
505Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
510Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
515Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
520Phận là gái ít đường giáo hối,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
525Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua chát thay những tính cương cường
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,
530Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
535Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
540Bề họ mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
545Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
550Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.
Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
555Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si,
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
560Trước là thờ phụng tiền nhân,
Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
565Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
570Thế gian lắm kẻ điên mê,
Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
575Đào tơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!
580Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
585Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
590Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
595Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
600Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
605Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào ?
610Chữ rằng "sinh ngã cù lao",
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
615Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
620Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
625Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
630Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh.
Loạn rồi lại có khi bình,
635Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
640Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,
645Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
650Ấy là thủa trước nam nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào ?
Chữ rằng: "loạn độc thư cao",
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
655Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
660Bõ khi nghèo khổ chua cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
665Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
670Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
675Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.
680Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
685Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu!
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
690Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.
Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
695Bước lên đường vào cửa ung dung,
Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,
Học hành cho biết thỉ chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
700Phú cho tai mắt thông minh,
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
705Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
710Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
715Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,
720Cương thường giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
725Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.
730Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô giẹp loạn, kinh luân mở nền
Pho kinh sử làu chuyên nghề học,
735Chốn thư đường từng đọc hôm mai,
Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn nho sĩ tử,
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,
740Làm nên trọng chức cao quyền,
Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
745Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tôn sinh,
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
750Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
755Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
Lý sinh chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
760Làm trai chí khí hiên ngang,
Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông
Lão Tuyền tuổi cả gia công,
765Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,
Đỗ Thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình
770Đường vân trình dù sau dù trước,
Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
775Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
780Thư trung Kim ngọc vô vàn,
Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đả hẳn rằng tốt đẹp hơn ai ?
Thư trung có gái tuyệt vời,
785Những người mặt ngọc là người vẻ vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy giọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương.
Thư trung tuấn vũ điêu tường.
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
790Ai có chí đêm ngày luyện tập,
Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,
795Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.
(Nguồn: vi.wikisource)
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.
*
* *
5Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
10Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
15Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm,
20Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh
25Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
30Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
35Hoặc khi hội hát linh đình,
Được lời dạy đến thì mình hãy ra,
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày,
40Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
45Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa.
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,
50Đừng đảo điên có nói làm không.
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai
55Cầm cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai ?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,
60Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
65Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,
70Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
75Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
80Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
85Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
90Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,
95Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày
100Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
105Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
110Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
115Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi.
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
120Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
125Sách có chữ "nhập gia vấn húy",
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
130Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
135Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm
140Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân" làm lòng.
145Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.
In lấy chữ tao khang chi nghị,
150Đừng mang câu đố kỵ chi thường.
Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
155Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai ?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
160Ấm no nên xót lấy người bơ vơ
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ "tùy" rắn khúc nghi gia.
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.
165Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
170Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
175Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
180Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa, ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
185Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch.
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
190Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
195Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.
Ắy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,
200Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
205Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng,
210Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần.
215Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
220Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
225Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước,
230Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
235Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
240Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
245Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,
250Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
255Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy.
Bọt bèo là phận nô tỳ,
260Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo riết người ta.
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
265Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi.
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
270Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
275Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
280Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
285Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
290Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi.
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
295Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
300Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
305Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
310Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
315Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng; ngày đói tháng đông,
320Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung,
Sống không, thác lại tay không có gì.
325Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
330Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
335Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
340Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.
345Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
350Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
355Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!
Thấy người mà phải lo ta,
360Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.
365Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.
Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,
370... (thiếu một câu)
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
375Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
380Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
385Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
390Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
395Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
400Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
405Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
410Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách,
Câu "hữu trai" nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
415Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
420Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
425Siêng năng thì chăm chú việc ta.
Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
430Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy rắng "giữ lửa chẳng chơi".
Cho hay đại phú bởi trời,
435Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
440Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
445Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì.
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
450Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường
455Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.
Có chữ rằng: "đạo trọng thân thân",
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
460Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
465Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,
470Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
475Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
480Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
485Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,
490Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
495Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung.
500Dạy những kẻ đàn bà con gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
505Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
510Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
515Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
520Phận là gái ít đường giáo hối,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
525Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua chát thay những tính cương cường
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,
530Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
535Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
540Bề họ mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
545Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
550Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.
Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
555Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si,
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
560Trước là thờ phụng tiền nhân,
Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
565Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
570Thế gian lắm kẻ điên mê,
Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
575Đào tơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!
580Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
585Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
590Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
595Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
600Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
605Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào ?
610Chữ rằng "sinh ngã cù lao",
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
615Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
620Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
625Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
630Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh.
Loạn rồi lại có khi bình,
635Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
640Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,
645Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
650Ấy là thủa trước nam nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào ?
Chữ rằng: "loạn độc thư cao",
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
655Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
660Bõ khi nghèo khổ chua cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
665Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
670Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
675Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.
680Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
685Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu!
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
690Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.
Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
695Bước lên đường vào cửa ung dung,
Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,
Học hành cho biết thỉ chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
700Phú cho tai mắt thông minh,
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
705Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
710Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
715Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,
720Cương thường giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
725Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.
730Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô giẹp loạn, kinh luân mở nền
Pho kinh sử làu chuyên nghề học,
735Chốn thư đường từng đọc hôm mai,
Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn nho sĩ tử,
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,
740Làm nên trọng chức cao quyền,
Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
745Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tôn sinh,
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
750Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
755Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
Lý sinh chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
760Làm trai chí khí hiên ngang,
Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông
Lão Tuyền tuổi cả gia công,
765Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,
Đỗ Thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình
770Đường vân trình dù sau dù trước,
Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
775Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
780Thư trung Kim ngọc vô vàn,
Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đả hẳn rằng tốt đẹp hơn ai ?
Thư trung có gái tuyệt vời,
785Những người mặt ngọc là người vẻ vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy giọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương.
Thư trung tuấn vũ điêu tường.
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
790Ai có chí đêm ngày luyện tập,
Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,
795Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.
*
* *
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)